Tumgik
#高雄GIA
99olden · 1 month
Text
推薦【高雄金飾】分享黃金、K金、gia鑽石價格好實在◎這間CP值最高的銀樓介紹
嘻嘻~~~今年年終雖然領的晚,但領的數字很漂亮,真是太開薫了~~~老早就想好要來好好犒賞自己一下,想買條金飾項鍊或是K金飾品來配戴,也在領年終之前就做了許多關於高雄黃金的款式.價格資訊,或是哪間高雄銀樓推薦去購買飾品等等的資訊!!!
Tumblr media
就在看了很多分享關於久久銀樓的介紹後,我發現大多數在高雄購買金飾禮盒或是K金對戒.鑽戒等等的網友,都是推薦久久銀樓挑選飾品或是gia鑽石戒指呢!!!
網友們都說久久銀樓的飾品款式非常的多,不管是要自己戴或是包裝成禮盒送人,店家都有提供專業的服務~~~所以很推薦不管是像我這樣想購買飾品自己配戴的人或者是要送禮,都是很好的選擇吶!!!!
Tumblr media
再看完網友們的分享文後,自己也有去找到了久久銀樓的官網,仔細的看了許多介紹資訊後,真的覺得久久銀樓提供的飾品款式,gia鑽石專業資訊都是非常的齊全,所以在一領到年終後,毅然決然的就這麼來了啊哈哈~~看官網就看的令人有些失心瘋,想必到實體店面..(哈哈快抓住我~~)
Tumblr media
久久銀樓的環境很舒服,而且還有提供地下停車場供客人停車~~~一進店裡就真的被琳瑯滿目的飾品給看暈了啊我哈哈!!!太多了!!沒看過不同種類的飾品可以有這麼這麼多的款式可以選擇~~~還好有店員親切的指引,在了解我的需求後,像我建議了選擇黃金項鍊來配戴!
因為黃金保值,所以如果之後想拋售的話,也比較有保障!!!而且在金飾店裡買的黃金飾品,如果之後想要回來換新的話~~因為他們的黃金純度都非常高,所以他們是能提供舊金換新金免扣失重的服務喔!!!加上她們也都會附上黃金保證書,在聽了店員給的意見後,也決定就來挑金飾啦!
Tumblr media
自己是傾向找項鍊,所以店員便先拿出來兩盤黃金項鍊款式讓我挑選~~~老實說,光兩盤就讓我猶豫不決好久了哈哈!!因為款式都好漂亮!!!一開始以為金飾可能都比較沒什麼變化,但在來了這一趟之後,整個大改觀啊!久久銀樓的金飾款式都很時尚呢!!!!價格也很公道!!!!
難怪高雄這麼多的銀樓.金飾店,網友們會最推薦她們~~~~~��為除了飾品款式選擇多外,店員的服務態度又非常的專業.親切!!!(大拇指)
Tumblr media
在經過店員的推薦介紹後,試戴了幾款自己也很喜歡的金飾項鍊,店員在幫我佩戴時還特別帶了手套呢,而且大家有發現上圖裡有一個茶壺嗎??這是店員提供的養生熱茶唷!!!在挑選金飾時還能邊喝熱茶,真的是好享受唷嘻嘻!真是來對了!!!!
Tumblr media
來~~~讓大家看看最後雀屏中選的金飾項鍊就是這個唷~~~~是不是簡約又好看啊!!!!我真的非常喜歡這條項鍊啊~~~~沒想到金飾項鍊可以挑到這麼好看的款式!!!!!但也是要特別感謝店員的幫忙,我才能找到這麼喜歡的項鍊~~~
Tumblr media
在確定好款式後,店員幫我包裝起來~~~但大家有看到店員是用甚麼包給我嗎? 用了很有質感的小提袋,在詢問之下才知道,這原來是她們去挑選日本布後製作的專屬提袋呢!!!真的是超讚的啦!!小巧的設計,平時也可以提出門~~~~好棒唷!!! 久久銀樓的用心,真的是從很多細節裡就可以看出來.感受到啊!!!
Tumblr media
YEAH~~~這就是我送給自己,慰勞自己辛苦一年的禮物啊哈哈!!!意外的還獲得了一個小熊維尼的小飾品呢!!!好LUCKY唷~~~~~真的太滿意來久久銀樓的服務了~~~~真的怪不得一堆來購買過飾品或是金飾禮盒的網友們都大力推薦!!! 現在我完全了解為甚麼了!!!因為我也成為她們的愛戴小粉絲了啊哈哈哈!!!!今年也要來好好努力工作,這樣明年就可以換來挑個小鑽戒~~~靠自己的力量讓自己當公主啦!哈哈~~~~~ 高雄婚戒、高雄鑽戒和高雄對戒來金飾挑吧~他們款是真的超多超好看的!!!心動~~~ 對了!需要找價格合理的黃金回收久久銀樓,也可以來呦!
📲LINE:https://page.line.me/99golden
☎️門市電話:07-5591299
🖥️官網:https://99golden.tw/
🏠門市地址:高雄市左營區明誠二路509號
🕚營業時間:週一到週六 AM 10:00~ PM 20:00 週日PM18:00
0 notes
tenhaychocon01 · 2 months
Link
0 notes
vpscb · 2 years
Text
BandwagonHost最便宜的CN2 GIA线路方案整理
搬瓦工的CN2 GIA线路终于上线了,效果肯定要比之前的GT方案好。测试体验极好,晚高峰也不堵。
不过Bandwagon的CN2 GIA线路方案通常价格非常高,不过好在有便宜的限量版套餐可供选择。下面BandwagonHost限量版套餐,也就是最便宜高速VPS服务器。
👉点击查看搬瓦工最便宜的CN2 GIA服务器
Tumblr media
搬瓦工是著名的美国it7集团旗下的VPS云服务提供商,资本很雄厚。拥有无比优质的VPS设备和网络在线率,稳定性极强。
Bandwagon已经有超过10年的运作时间,是个老牌资深商家。
好了,以上就是BandwagonHost最便宜的CN2 GIA线路方案整理分享。美国洛杉矶DC9/DC6两个企业级CN2 GIA专线网络,速度很快。
0 notes
jinrushan · 4 years
Photo
Tumblr media
2020/05/28金如山銀樓 【假日依然營業】 官方line: @jr9999 黃金📌飾金 賣出 6070/錢 買進 5760/錢 白金📌飾金 賣出 3370/錢 買進 2550/錢 ⭐金價隨國際波動.依照當下當下工會發佈為主⭐ 有黃金金飾.白金金飾.黃金條塊 想販售歡迎私訊詢問!!! #金如山銀樓 #高雄銀樓 #直播 #黃金回收 #重量換重量 #moneyexchange #Cashondelivery #Goldring #Goldnecklace #Goldbracelet #Goldpendant #Goldearrings #GIA #白金 #鉑金 #求婚戒 #diamond #婚戒 #鑽戒 #克拉 #對戒 #40年老店 #黃金牌價 #婚戒推薦 #白金回收 #金飾出租 #舊金回收 #黃金結婚套組 https://www.instagram.com/p/CAuDnyeF1uV/?igshid=tn6ea1vdu7zl
0 notes
brandddstory · 4 years
Text
1001 Câu chuyện thương hiệu | Lotus Speech 莲花演说
//
writen by ZHOU Junjun
Tumblr media
第一个故事
男人拖着疲倦回到家,妻子问:“怎么这么晚回来?是不是外面有人了?”
男人忽然感到非常愤怒地对妻子说:“你怎么这么不理解我?”
第二天,他们去民政局换了一本证……
Câu chuyện đầu tiên
Người đàn ông kéo về nhà mệt mỏi, vợ hỏi: "Sao anh về muộn vậy? Có ai ở ngoài không?"
Người đàn ông đột nhiên cảm thấy rất tức giận và nói với vợ: "Tại sao anh không hiểu em nhiều như vậy?"
Ngày hôm sau, họ đến Cục Nội vụ để đổi lấy chứng chỉ ...
 第二个故事
课后,老师对学生说:“如果再是这个成绩,我会劝你转校了,跟上你会很吃力。”
回家,母亲拿着试卷恨铁不成钢地指责孩子说:“再过一年高考了,你看你该怎么办,你看考得上哪个学校,你看你将来该怎么办!怎么这么不争气呢。”
晚间补习,补习老师说:“怎么教了这么多遍,你就是做不对呢?”
当晚,学生从补习老师家一跃而下,当场死亡,他才十六岁……
Câu chuyện thứ hai
Sau giờ học, giáo viên nói với học sinh: "Nếu lại học lớp này, tôi sẽ khuyên bạn chuyển đến trường. Sẽ rất khó để theo kịp bạn."
Về nhà, người mẹ buộc tội đứa trẻ bằng một bài kiểm tra ghét sắt thép và nói: "Sau một năm thi đại học, bạn nghĩ bạn nên làm gì? Chiến đấu vì nó. "
Vào buổi tối, gia sư nói, "Tại sao bạn dạy nó nhiều lần đến mức bạn không làm đúng?"
Đêm đó, học sinh nhảy từ nhà của gia sư và chết ngay tại chỗ. Anh ta chỉ mới 16 tuổi ...
Tumblr media
第三个故事
十年寒窗苦读,他是有名的学霸,名企招聘会上,面试官对他说:“介绍下你自己。”
他说:“啊……嗯……我……我叫……”
面试官说:“对不起,请下一位。”
走出门,他靠着墙蹲下,把简历撕得粉碎……
Câu chuyện thứ ba
Sau mười năm học tập chăm chỉ, anh ta là một con bò trường nổi tiếng. Tại các cuộc phỏng vấn với các công ty nổi tiếng, người phỏng vấn nói với anh ta, "Giới thiệu bản thân."
Anh ta nói, "À ... ờ ... tôi ... tôi ..."
Người phỏng vấn nói: "Tôi xin lỗi, làm ơn tiếp theo."
Bước ra khỏi cửa, anh ta cúi người vào tường, xé sơ yếu lý lịch của mình thành từng mảnh ...
 第四个故事
团队准备整整一月,精心编制各种节目,终于迎来了万众期待的年会。
董事长在员工热情的掌声中缓步走上讲台,举起话筒方才发觉演讲稿落在座位上,他望着台下黑压压的人群,一双双亮晶晶的眼睛,忽然觉得呼吸急促,头冒冷汗,双脚发抖……
他不禁往讲台中间挪了挪,这一挪,却不小心把话筒掉到了地上,台下一下子热闹起来,传来闷声的笑声。
他完全慌了神,已不记得演讲稿的内容,有些尴尬地弯下腰捡起话筒咳了两声说:“哈哈,大家,吃好,喝好!谢谢!”
然后像逃荒般地窜下台回到座位,连忙拿起纸巾擦拭满头汗水,剧烈的心跳声在耳畔久久不能散去……
Câu chuyện thứ tư
Nhóm đã chuẩn bị cho cả tháng, biên soạn cẩn thận các chương trình khác nhau và cuối cùng đã mở ra cuộc họp thường niên rất được mong đợi.
Chủ tịch chậm rãi bước lên bục giảng với những tràng pháo tay nồng nhiệt của nhân viên, và giơ micro trước khi nhận ra bài phát biểu rơi xuống ghế. Anh nhìn đám đông dưới sân khấu, đôi mắt sáng ngời, và đột nhiên cảm thấy khó thở và mồ hôi lạnh trên đầu. Chân bạn đang run rẩy ...
Anh ta không thể không di chuyển đến giữa bục giảng, nhưng điều này vô tình làm rơi micro xuống đất, và khán giả vỡ òa và nghe thấy tiếng cười bịt miệng.
Anh ta hoàn toàn hoảng loạn, và không thể nhớ nội dung bài phát biểu. Anh ta cúi xuống một cách ngượng ngùng, cầm micro và ho hai lần: "Haha, mọi người, ăn ngon, uống tốt! Cảm ơn!"
Sau đó chạy trốn khỏi sân khấu như chạy trốn, trở về chỗ ngồi, nhanh chóng lấy khăn giấy và lau mồ hôi, nhịp tim mãnh liệt không thể biến mất trong một thời gian dài trong tai tôi ...
 第五个故事
商业路演现场,他拿着一个团队整整一个月不眠不休做出的商业计划书,已经有20万高粘度粉丝,信心十足。
当话筒递到他手上,投资人说:“请用三句话说明你的项目。”
他说:“呃……我们做的是……是……”
投资人说:“谢谢,请下一位。”
他黯然坐下,合作伙伴们都黯然低下了头,拍了拍他的肩膀,起身离去……
Câu chuyện thứ năm
Tại roadshow thương mại, anh ấy đã tổ chức một nhóm các kế hoạch kinh doanh mà anh ấy đã làm việc trong cả tháng và có 200.000 người hâm mộ có độ nhớt cao rất tự tin.
Khi micro được chuyển cho anh ta, nhà đầu tư nói: "Hãy giải thích dự án của bạn trong ba câu."
Anh ta nói, "Uh ... những gì chúng ta làm là ... vâng ..."
Các nhà đầu tư nói, "Cảm ơn bạn, xin vui lòng tiếp theo."
Anh buồn bã ngồi xuống, tất cả các đối tác đều cúi đầu buồn bã, vỗ vai anh, đứng dậy và rời đi ...
 第六个故事
古有贾诩一句话引起百年战乱,亦有张仪三寸不烂之舌抵百万雄狮。
历史由人演绎,社会由人诠释,生活由人改变。
今天,当我们面对各种繁琐,各种误解,各种质疑,各种矛盾,各种委屈,我们都说,这是人造成的。
蓦然回首,三省吾身,这是——沟通——造成的!
Câu chuyện thứ sáu
Vào thời cổ đại, những lời nói của Jia Yi đã gây ra một trăm năm chiến tranh và lưỡi không thối ba inch của Zhang Yi đã đến với một triệu con sư tử đực.
Lịch sử được giải thích bởi mọi người, xã hội được giải thích bởi mọi người, và cuộc sống được thay đổi bởi mọi người.
Ngày nay, khi chúng ta đối mặt với tất cả các loại tẻ nhạt, tất cả các loại hiểu lầm, tất cả các loại nghi ngờ, tất cả các loại mâu thuẫn, tất cả các loại bất bình, tất cả chúng ta đều nói rằng điều này là do con người gây ra.
Đột nhiên nhìn lại, ba tỉnh là cơ thể của tôi, đây là - gây ra giao tiếp!
 第N个故事
..........
Câu chuyện thứ n
..........
  “莲花演说”源自“舌灿莲花,口吐莲花”,主要形容人口才好,口齿伶俐,能言善道,有如莲花般的美妙。莲花,也有纯洁,正直,吉祥之意。古月今心取“莲花演说”,意其一是人若有纯洁正直的心,逢人多说吉祥的话,这样人们便会心生欢喜,人事顺利,性格也就乐观包容,命运也就更加舒顺。意其二,公众演说,能够能言善道,犹如莲花般的美妙。
"Lời nói hoa sen" bắt nguồn từ "hoa sen lưỡi, hoa sen nhổ". Nó chủ yếu mô tả dân số, nói rõ, có thể nói tốt, và đẹp như hoa sen. Hoa sen cũng có nghĩa là sự tinh khiết, toàn vẹn và tốt lành. Gu Yuejin lấy "bài diễn văn hoa sen". Một trong những lý do là nếu mọi người có một trái tim thuần khiết và chính trực và nói những lời tốt lành mỗi lần, mọi người sẽ vui mừng trong lòng, mọi thứ sẽ trôi chảy, tính cách của họ sẽ lạc quan và khoan dung hơn, và số phận của họ sẽ còn hơn thế nữa. Shushun. Thứ hai, các bài phát biểu trước công chúng có thể nói chuyện tử tế, giống như một bông hoa sen.
 在这个科技日新月异的时代,移动互联网深入到我们生活的方方面面,改变了我们的社交方式,看似缩短了人与人之间的距离。恰恰相反的是,而今“人际交往”却成为大家津津乐道的话题,人们热衷学习“情商”,“智商”,“处理人际关系”。
Trong thời đại công nghệ thay đổi nhanh chóng này, Internet di động đã thâm nhập vào mọi khía cạnh của cuộc sống của chúng ta, thay đổi cách chúng ta giao tiếp và dường như rút ngắn khoảng cách giữa mọi người. Ngược lại, "giao tiếp giữa các cá nhân" đã trở thành một chủ đề mà mọi người đều nói đến. Mọi người rất muốn học "EQ", "IQ" và "xử lý các mối quan hệ giữa các cá nhân".
 古月今心说,从他帮助的几千位因公众演说有障碍的学员,他发现经常用正确的方式进行演说训练,不仅让更多的人成功的解决了公众演说障碍,还更加提高了沟通和谈判能力,连同日常人际关系也有积极改善。而今,古月今心已经帮助几千人因为沟通,因为演说问题而遇到困惑的人。而今,莲花演说遍布全国多个一线城市,成为中国极具影响力的互动演说训练机构,收获学员大量赞誉。
Gu Yuejinxin cho biết, từ hàng ngàn học viên gặp khó khăn trong việc nói trước công chúng, anh nhận thấy rằng việc luyện nói thường xuyên đúng cách không chỉ cho phép nhiều người giải quyết thành công những trở ngại nói trước công chúng mà còn cải thiện Kỹ năng giao tiếp và đàm phán, cùng với các mối quan hệ giữa các cá nhân hàng ngày, cũng đã được cải thiện. Ngày nay, Gu Yuejin Xin đã giúp đỡ hàng ngàn người đang bối rối vì vấn đề giao tiếp và lời nói. Ngày nay, các bài phát biểu của Lotus đã lan rộng trên nhiều thành phố hạng nhất trên cả nước và trở thành cơ sở đào tạo bài phát biểu tương tác có ảnh hưởng nhất của Trung Quốc, nhận được nhiều lời khen ngợi từ các sinh viên.
 古月今心过去十二年,把自己的全部心血和精力专注于沟通、演说事业,未来,他将一如既往……他只是希望能够帮更多人解决沟通问题,让他们不会再因为沟通问题失去家庭,不会因为沟通问题失去机会,不会因为沟通问题失去自信,不会因为沟通问题铸就大错后悔终生。
Trong mười hai năm qua, Gu Yuejinxin đã dành tất cả nỗ lực và năng lượng của mình cho sự nghiệp giao tiếp và nói chuyện. Trong tương lai, anh sẽ tiếp tục như mọi khi ... Anh chỉ hy vọng sẽ giúp nhiều người giải quyết các vấn đề giao tiếp để họ không bị ảnh hưởng bởi các vấn đề giao tiếp. Nếu bạn mất gia đình, bạn sẽ không mất cơ hội vì vấn đề giao tiếp, bạn sẽ không mất tự tin vì vấn đề giao tiếp và bạn sẽ không hối hận về cuộc sống của mình vì vấn đề giao tiếp.
 沟通,让你学会怎么好好生活;沟通,让你学会怎么面对他人;沟通,让你学会怎么认识自己;沟通,让你学会怎样把握机会;沟通,改变命运,演讲,改变人生……古月今心说:人一生,学会好好说话,你会发现满是惊喜 。 提升演讲,做一个懂得一对多、一对一沟通的人。
Giao tiếp cho phép bạn học cách sống tốt, giao tiếp cho phép bạn học cách đối mặt với người khác, giao tiếp cho phép bạn học cách tự biết mình, giao tiếp cho phép bạn học cách nắm bắt cơ hội, giao tiếp, thay đổi số phận, giảng dạy, thay đổi cuộc sống ... Jinxin nói: Trong cuộc sống của bạn, học cách nói tốt, bạn sẽ thấy nó đầy bất ngờ. Cải thiện bài thuyết trình và là một người hiểu giao tiếp một-nhiều và một-một.
1 note · View note
tommyson11-blog · 5 years
Text
钻石颜色和等级购买指南
哪种遮光等级通常很有吸引力?钻石的色调D,E和F都可以特别精细地收集起来,并且可能被暗指为“沉闷”,“出色的白色”。或“罕见的白色”,因为它们通常由钻石供应商描绘。 G和H可能被指为“纯白色”或“罕见白色”。这些评估完全被认为是极好的。我和J的色调有些偏白色。 K和L呈现黄色或深色,但是设置可以定期遮盖轻微的色调。评估M-Z将动态地显示出越来越多的阴影色调,并具有明显的淡黄色或焦糖色;经常将淡黄色的钻石称为海角石作为交换。钻石等级D-J似乎比评估钻石K-Z具有更好的转售潜力。这并不意味着深色阴影的钻石(J之下的评论)不是可爱或诱人的。它们可以制作出令人眼花azz乱的装饰品,并视其他质量组件和“大体上而言”的阴影而定。请记住:阴影很重要,但是它只是判断整个石头时应该弄清楚如何称重的四个变量之一。遮挡等级对自尊的确切影响程度是多少?对于未经训练的人来说,在未经直接检查的情况下,认识到固定石中从D到H的阴影的区别实际上是荒谬的。考虑到所有因素,阴影的区别极大地影响了钻石的估算。一克拉无可挑剔的,比例极高的D阴影钻石的销售价格可能比具有H阴影的类似钻石要高得多。带有K阴影的类似石头的售价可能要低得多。此外,如果石材并非完美无缺或切割得非常多,它的售价可能会大大降低。对于超过一克拉的钻石,石头越白,实现对其尊严影响的确定阴影评估就越基础。再说一次,只要您最有可能毫无疑问地知道石头是什么阴影,并支付正确的价格,选择一个评估价低一个或两个的钻石就可以减少每克拉的费用,并且将接近镶嵌石头时,毫无区别,毫无区别。按照这些思路,出于成本上的差异,您可以选择获得更大的钻石,或者获得具有较高透明度的钻石,这要视您通常需要的钻石而定。什么是荧光?如果您正在考虑的钻石与钻石审阅报告一起加入,它将显示钻石是否具有某种程度的荧光。这是几个石头组的特性,使它们在各种灯光下都呈现出各种色调。发出荧光的钻石可能会发出比真正确定的情况下更亮的白色。这就是为什么要由认证的宝石学家一致地确认任何优质钻石的阴影的动机。如果钻石发出荧光,则当在日光或阳光下(在许多商店和营业场所的屋顶上发现的那些长圆柱体)看到时,它通常会发出某种蓝色,淡黄色或淡淡的白色光芒。为确保对真实的身体阴影进行审查,专家将在进行阴影评估之前始终如一地用罕见的亮光测试荧光。蓝色荧光比黄色或白色更典型。在正确的光线下,某些产生蓝色荧光的白色钻石可能看起来确实是“蓝白色”。通常,无论如何,您通常不会用肉眼看到荧光另外还必须知道钻石是否发出荧光,以避免任何令人不安的震动。例如,您不太可能购买“荧光”钻石,因为购买时它看起来是如此“白”(这是由于在装饰品商店中出现了耀眼的光,这是由于荧光导致的)石头,是检查钻石阴影的最佳可能的光源),在夜晚的石头不会发荧光的情况下,您可能会对它泛黄的外观感到困惑。白色钻石同样可以发出黄色荧光,并且看上��比真正的黄色。无论如何,只要记住荧光产生的阴影,它就会发生在阳光或强光下。荧光会影响自尊吗?在大多数情况下,荧光的接近或不出现对自尊几乎没有任何影响。即便如此,如果该石头具有稳定的黄色荧光,它的售价可能会低10%到15%,因为这会使该石头在某些光线下比具有类似阴影等级的另一块石头显示出更黄的颜色。暗淡的荧光的存在可能被视为额外的优势,这是一点收获,因为它可能使宝石在某些光线下显得更白;但是在成本上可能没有区别。你应该钻石
珍珠色。
阴影是选择钻石时要考虑的最重要组成部分之一,因为很多人看到的主要内容之一是钻石是白色的,或更确切地说是无聊的。另外,它也是影响自尊的最大变量之一。
阴影暗示钻石具有特征性的身体阴影。最好的,通常价格昂贵的“白色”钻石完全是空洞的。大多数钻石都带有淡淡的黄色或泥土色的色彩, 鑽石 但钻石同样会出现在彩虹的各个阴影中。特征阴影钻石被归类为“奢侈”钻石。
评估阴影的钻石看起来像什么?
在白色钻石中,从一个评估开始到下一个评估的阴影对比可能是不真实的,并且在安装钻石时很难看出几个评估之间的区别。请记住,很难精确地检查已安装钻石的阴影。无论如何,当在未安装的石头上使用雄鹰时,即使是新手也可以弄清楚,如果正确看待石头,该如何看待阴影对比。
由于钻石的高光泽度和高散射性,无法通过从顶部或朝上的位置对石头进行stone割来精确地控制阴影评估。理想的情况是通过在桌子底下通过结构分析石材来观察阴影。使用平坦的白色表面,例如白色名片或评估槽,可以从宝石供应商或GIA美国宝石学院获得。接下来,看一下结构朝下的石头和指示您的尖顶。
什么是钻石身体阴影?
在谈到钻石的主体阴影时,我们暗示在白色(无聊)的钻石中会发现过多的黄色或深色。我们并不是在暗示不常见的普通阴影钻石,它们在交易所中被称为“奢侈”或“王牌”。
如今,以字母D开头的顺序量表对美国和越来越多的不同国家中最空洞的钻石进行评估,字母D代表最佳,稀有,最完全沉闷的钻石,然后精确地遍历整个字母集合Z. D后面的每个字母都显示出增加的淡黄色(或焦糖)色度到身体阴影处。阴影等级很简单,只要您不记得就可以了:字母越接近D,钻石越白;字母与Z越接近,钻石越黄(或更暗)。
该评审框架及其信函分配是美国宝石学院(通常被称为GIA)提出的钻石评估框架的一部分,在广泛的钻石交易中得到广泛使用。评估E-F尤其好,该范围内的钻石可以说是“沉闷的”,尽管事实上E和F并非单调乏味,因为它们具有非常轻微的黄色提示。尽管如此,色调是如此微弱,以至于交换同意它们可能被暗示为干燥。
哪种遮光等级通常很有吸引力?
钻石的色调D,E和F都可以特别精细地收集起来,并且可能被暗指为“沉闷”,“出色的白色”。或“罕见的白色”,因为它们通常由钻石供应商描绘。 G和H可能被指为“纯白色”或“罕见白色”。这些评估完全被认为是极好的。我和J的色调有些偏白色。 K和L呈现黄色或深色,但是设置可以定期遮盖轻微的色调。评估M-Z将动态地显示出越来越多的阴影色调,并具有明显的淡黄色或焦糖色;经常将淡黄色的钻石称为海角石作为交换。
钻石等级D-J似乎比评估钻石K-Z具有更好的转售潜力。这并不意味着深色阴影的钻石(J之下的评论)不是可爱或诱人的。它们可以制作出令人眼花azz乱的装饰品,并视其他质量组件和“大体上而言”的阴影而定。请记住:阴影很重要,但是它只是判断整个石头时应该弄清楚如何称重的四个变量之一。
遮挡等级对自尊的确切影响程度是多少?
对于未经训练的人来说,在未经直接检查的情况下,认识到固定石中从D到H的阴影的区别实际上是荒谬的。考虑到所有因素,阴影的区别极大地影响了钻石的估算。一克拉无可挑剔的,比例极高的D阴影钻石的销售价格可能比具有H阴影的类似钻石要高得多。带有K阴影的类似石头的售价可能要低得多。此外,如果石材并非完美无缺或切割得非常多,它的售价可能会大大降低。
对于超过一克拉的钻石,石头越白,实现对其尊严影响的确定阴影评估就越基础。再说一次,只要您最有可能毫无疑问地知道石头是什么阴影,并支付正确的价格,选择一个评估价低一个或两个的钻石就可以减少每克拉的费用,并且将接近镶嵌石头时,毫无区别,毫无区别。按照这些思路,出于成本上的差异,您可以选择获得更大的钻石,或者获得具有较高透明度的钻石,这要视您通常需要的钻石而定。
什么是荧光?
如果您正在考虑的钻石与钻石审阅报告一起加入,它将显示钻石是否具有某种程度的荧光。这是几个石头组的特性,使它们在各种灯光下都呈现出各种色调。发出荧光的钻石可能会发出比真正确定的情况下更亮的白色。这就是为什么要由认证的宝石学家一致地确认任何优质钻石的阴影的动机。
如果钻石发出荧光,则当在日光或阳光下(在许多商店和营业场所的屋顶上发现的那些长圆柱体)看到时,它通常会发出某种蓝色,淡黄色或淡淡的白色光芒。为确保对真实的身体阴影进行审查,专家将在进行阴影评估之前始终如一地用罕见的亮光测试荧光。蓝色荧光比黄色或白色更典型。在正确的光线下,某些产生蓝色荧光的白色钻石可能看起来确实是“蓝白色”。通常,无论如何,您通常不会用肉眼看到荧光
另外还必须知道钻石是否发出荧光,以避免任何令人不安的震动。例如,您不太可能购买“荧光”钻石,因为购买时它看起来是如此“白”(这是由于在装饰品商店中出现了耀眼的光,这是由于荧光导致的)石头,是检查钻石阴影的最佳可能的光源),在夜晚的石头不会发荧光的情况下,您可能会对它泛黄的外观感到困惑。
白色钻石同样可以发出黄色荧光,并且看上去比真正的黄色。无论如何,只要记住荧光产生的阴影,它就会发生在阳光或强光下。
荧光会影响自尊吗?
在大多数情况下,荧光的接近或不出现对自尊几乎没有任何影响。即便如此,如果该石头具有稳定的黄色荧光,它的售价可能会低10%到15%,因为这会使该石头在某些光线下比具有类似阴影等级的另一块石头显示出更黄的颜色。
暗淡的荧光的存在可能被视为额外的优势,这是一点收获,因为它可能使宝石在某些光线下显得更白;但是在成本上可能没有区别。你应该
1 note · View note
cheryldan · 3 years
Text
[Thành ngữ, Tục ngữ Trung Hoa] Một số câu thành ngữ tục ngữ hay của Trung Hoa – Học Tiếng Trung Quốc
Á khẩu vô ngôn – 哑口无言 (Yǎ kǒu wú yán)
Ác hổ bất thực tử – 恶虎不食子 (è hǔ bù shí zǐ) – (hổ dữ không ăn thịt con).
Ác sự hành thiên lý – 恶事行千里 (È shì xíng qiānlǐ) – (việc xấu đồn xa nghìn dặm) = Ác sự truyền thiên lý, trong Hảo sự bất xuất môn, Ác sự truyền thiên lý – 好事不出门,恶事传千里  – hǎo shì bù chū mén,è shì chuán qiān lǐ (việc tốt ko ra khỏi cửa, việc xấu truyền nghìn dặm).
Anh hùng khí đoản – 英雄气短 (yīng xióng qì duǎn) (Khí đoản: Hô hấp ngắn –> để hình dung đã mất chí khí, mất đi dũng khí và tín tâm –> nói chung là để hình dung người có tài trí, chí khí do gặp thất bại vấp ngã mà mất đi ý chí tiến thủ. Hay thấy xếp chung là Nhi  nữ tình trường, Anh hùng khí đoản. Xem Nhi nữ tình trường ở dưới).
Anh hùng mạt lộ – 英雄末路 (yīng xióng mò lù) (người anh hùng gặp lúc khốn cùng, hết lối thoát).
Ái tài nhược khát – 爱才若渴 (ài cái ruò kě) – Mến chuộng người tài như khát nước)
Ái thế tham tài -爱势贪财 (Ài shì tāncái) – Yêu quyền thế, ham tài năng.
Ái tiền như mệnh – 爱钱如命 (ài qián rú mìng) – Yêu tiền như mạng sống)
Ám độ Trần Thương – 暗度陈仓 (Àndùchéncāng) – Trong Minh tu sạn đạo, Ám độ Trần Thương 明修栈道,暗度陈仓 (míng xiū zhàn dào,àn dù chén cāng) – Truyện Hàn Tín vờ sửa sạn đạo, ngầm vượt Trần Thương, là kế thứ 8 trong 36 kế, đại loại hơi giống giương đông kích tây.
Ám tiễn thương nhân – 暗箭伤人 (àn jiàn shāng rén) – Bắn tên ngầm hại người, bí mật hại người).
Âm hiểm độc lạt – 阴险毒辣 (Yīnxiǎn dúlà) – Chỉ người hiểm trá thâm độc.
Ẩm thủy tư nguyên – 饮水思源 (yǐn shuǐ sī yuán) – Uống nước nhớ nguồn.
An bang định quốc –  安邦定国 (ān bāng dìng guó) – Bình thiên hạ lập đại quốc, thống nhất giang sơn
An cư lạc nghiệp – 安居乐业 (ān jū lè yè) – Ổn định chỗ ở mới có thể yên ổn làm ăn.
An nhàn tự tại – 安闲自在 (ān xián zì zài) – Tiêu diêu (dao) tự tại – 逍遥自在 (xiāo yáo zì zài) – Thoải mái tự do
An phận thủ kỷ – 安分守己 (ān fèn shǒu jǐ) (Phận: bổn phận, giữ thân giữ phận, ko làm gì trái với bổn phận của mình) – Không ham hố thăng tiến, chỉ thích an nhàn thủ phận
Án binh bất động – 按兵不动 (àn bīng bù dòng) – Giữ nguyên đội hình quân đội, không hành động gì.
Bác đại tinh thâm –  博大精深 – bó dà jīng shēn (bác: sâu rộng, rộng lớn, phong phú).
Bách cảm giao tập – 百感交集 – bǎi gǎn jiāo jí (cảm: cảm tưởng; giao: đồng thời phát sinh–> có nhiều loại cảm tình phát sinh cùng một lúc, tâm tình phức tạp)
Bách cử bách toàn – 百举百全 – bǎi jǔ bǎi quán (làm gì cũng đạt được hiệu quả).
Bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh – 百花齐放,百家争鸣 – bǎi huā qí fàng,bǎi jiā zhēng míng (trăm hoa đua nở, trăm nhà tranh tiếng  – hiện nay thì gọi là một thế giới, nhiều lý thuyết, đúng không nhỉ??? :-D).
Bách phát bách trúng – 百发百中 – bǎi fā bǎi zhòng  = Bách bộ xuyên dương 百步穿杨 – bǎi bù chuān yáng.
Bách túc chi trùng, tử nhi bất cương – 百足之虫死而不僵 – bǎi zú zhī chóng,sǐ ér bù jiāng (con rết trăm chân, chết mà không ngã, dùng để hình dung nhân vật,  quý tộc hoặc hào môn thế gia có thế lực to lớn, tuy đã suy bại nhưng uy lực ảnh hưởng vẫn còn tồn tại).
Bách y bách thuận – 百依百顺 – bǎi yī bǎi shùn (trăm theo trăm thuận, cái gì cũng thuận theo người khác).
Bạch đầu tương thủ – 白头相守 – bái tóu xiāng shǒu (vợ chồng ân ái chăm sóc nhau đến tận bạc đầu).
Bán đồ nhi phế – 半途而废 – bàn tú ér fèi (bỏ dở nửa đường = bỏ dở giữa chừng) = Trung đạo nhi phế.
Bán tín bán nghi – 半信半疑 – bàn xìn bàn yí (nửa tin nửa ngờ).
Báo cừu tuyết hận – 报仇雪恨 – bào chóu xuě hèn (báo cừu rửa hận).
Báo cừu tuyết sỉ – 报仇雪耻 – bào chóu xuě chǐ (báo cừu rửa nhục).
Bát diện linh lung – 八面玲珑 – bā miàn líng lóng (nguyên để chỉ [phòng/nhà/gác…] có nhiều cửa sổ, tám phương tứ hướng đều sáng sủa (từ  linh lung này ở vn mình hay dùng là lung linh/ long lanh???). Hiện dùng để hình dung người linh hoạt mẫn tiệp, đối nhân xử thế linh hoạt,đối với ai cũng khéo léo. Trang này đưa giải thích tiếng Anh như sau be all things to all men; be a perfect mixer in any company; be smooth and slick (in establishing social relations); capable of dealing with all men; clever in dealing with people).
Bát diện uy phong – 八面威风 – bā miàn wēi fēng (vì có nàng hỏi ý nghĩa của câu này, cho nên câu này được giải thích ở phần comment phía dưới, ta lười copy lên đây, cho nên ai thắc mắc mời xuống phần comment đọc :-P).
Bát thủy nan thu – 泼水难收 – pō shuǐ nán shōu = Phúc thủy nan thu – 覆水難收 – fù shuǐ nán shōu  (nước đã đổ đi rồi ko thể thu lại được).
Bát tiên quá hải, các hiển thần thông –  八仙过海,各显神通- bā xiān guò hǎi,gè xiǎn shén tōng, hoặc Bát tiên quá hải, các hiển kỳ năng – 八仙过海,各显其能 – bā xiān guò hǎi,gè xiǎn qí néng (tám tiên vượt biển, mỗi người đều hiển thị thần thông của mình –> chỉ làm việc mỗi người đều tự có cách riêng, hoặc mỗi người đều đem bản lĩnh của mình ra thi đua. Bát tiên: tám vị tiên trong truyền thuyết đạo gia, có nhiều thuyết khác nhau, nhưng đại loại là bao gồm: Hán Chung Li, Trương Quả Lão, Hàn Tương Tử, Thiết Quải Lí, Tào Quốc Cữu, Lã Động Tân, Lam Thái Hòa, Hà Tiên Cô).
Bất cận nhân tình – 不近人情 (Không gần, không theo thường tình con người, dịch ra tiếng Anh là unreasonable,  cũng để chỉ tính tình hoặc ngôn ngữ hành động kỳ lạ, hình như xuất phát từ 1 sách nào đó của Trang tử).
Bất đả bất tương thức – 不打不相识 – bù dǎ bù xiāngshì (xuất từ Thủy hử. Câu này thì kinh điển của thể  loại kiếm hiệp rồi, không đánh ko quen, ko đánh thì ko biết nhau/ kết giao).
Bất khả tư nghị – 不可思议 – bù kě sī yì (không thể tưởng tượng ra nổi, không thể giải thích nổi).
Bất khán tăng diện khán phật diện – 不看僧面看佛面 – bù kàn sēng miàn kàn fó miàn (xuất từ Tây du ký)
Bất kiến quan tài bất lạc lệ – 不见棺材不落泪 – bù jiàn guān cái bù luò lèi (chưa thấy quan tài chưa đổ lệ –> kaka favourite của mình :D).
Bất thị oan gia bất tụ đầu – 不是冤家不聚头 – bù shì yuān jiā bù jù tóu (không phải oan gia ko gặp mặt)
Bất trà bất phạn – 不茶不饭 – bù chá bù fàn (không trà không cơm – tâm sự trùng trùng ko lòng dạ nào để ý đến ăn uống).
Bất tri bất giác – 不知不觉 – bù zhī bù jué.
Bất tri giả bất tội – 不知者不罪 – bù zhī zhě bù zuì (người ko biết thì ko có tội).
Bế nguyệt tu hoa – 闭月羞花 – bì yuè xiū huā (chỉ sắc đẹp hoa nhường nguyệt thẹn; bế: đóng, khép, ngậm, nhắm; tu: lấy làm xấu hổ).
Bi hoan ly hợp – 悲欢离合 – bēi huān lí hé (-> chỉ các tình huống của đời người).
Bì tiếu nhục bất tiếu – 皮笑肉不笑 – pí xiào ròu bù xiào (da cười thịt không cười, tóm lại là giả vờ ngoài mặt tươi cười).
Biên học biên vấn, tài hữu học vấn – 边学边问,才有学问 (vừa học vừa vấn [hỏi], mới có học vấn).
Binh bất yếm trá – 兵不厌诈 – bīng bù yàn zhà (trong việc binh không ngại gian trá).
Binh lai tướng đáng, thủy lai thổ yểm – 兵来将挡,水来土掩 – bīng lái jiàng dǎng,shuǐ lái tǔ yǎn (quân đến tướng chặn, nước đến đất ngăn –> bất kể đối phương sử dụng thủ đoạn nào, đểu linh hoạt có biện pháp tương ứng để đối phó).
Binh tại tinh nhi bất tại đa – 兵在精而不在多 – bīng zài jīng ér bù zài duō (binh cốt ở chỗ tinh nhuệ, chứ ko phải số lượng nhiều).
Binh tinh lương túc – 兵精粮足 – bīng jīng liáng zú (quân tinh nhuệ, lương thực đầy đủ).
Bình khởi bình tọa – 平起平坐 – píng qǐ píng zuò (đứng  lên ngồi xuống đều bằng như nhau, chỉ người có địa vị quyền lực ngang nhau).
Bình thời bất thiêu hương, cấp lai bão Phật cước – 平时不烧香,急来抱佛脚- píng shí bù shāo xiāng,jí lái bào fó jiǎo (bình thường ko thắp hương, có việc ôm chân Phật –> bình thường ko lai vãng, khi có việc đến cầu cứu).
Bình thủy tương phùng – 萍水相逢 – píng shuǐ xiāng féng (bèo nước gặp nhau).
Bồi liễu phu nhân hựu chiết binh – trong câu 周郎妙计安天下,赔了夫人又折兵 – zhōu láng miào jì ān tiān xià, péi le fū rén yòu zhé bīng (Chu lang diệu kế an thiên hạ, vừa mất phu nhân lại thiệt quân –> tóm lại là tưởng có lợi nhưng cuối cùng ko được gì cả) –> phản đối đem Mỹ Chu lang của mình ra đặt thành ngữ kiểu này T_T. => Phải như thế nào thì người ta mới đặt ra như thế chứ, ko có lửa sao có khói?  -> Chẳng thế nào, chẳng qua là La Quán Trung dìm hàng Chu lang trong Tam quốc diễn nghĩa, có khi là ghen ghét tài năng và sắc đẹp cũng nên?,  thiên hạ lại đọc truyện Tam quốc diễn nghĩa là chủ yếu, mấy ai đọc sử thật… huhuhu
Các đắc kỳ sở – 各得其所 – gè dé qí suǒ (mỗi người hoặc mỗi sự việc đều đạt được an bài thỏa đáng, chung cuộc ai cũng đều mãn ý).
Cam bại hạ phong –  甘败下风 – gān bài xià fēng  =  Cam bái hạ phong 甘拜下风 – gān bài xià fēng (cam: cam tâm tình nguyện, hạ phong: cuối  gió –> chịu thua tâm phục khẩu phục – chắc do chữ bại với chữ bái đọc y như nhau nên mới dẫn đến có 2 version???).
Can đảm quá nhân – 肝胆过人 – gān dǎn guò rén (can đảm hơn người).
Can sài liệt hỏa – 干柴烈火 – gān chái liè huǒ (củi khô lửa mạnh, như củi khô gặp lửa, dùng để chỉ nhu cầu tình dục mãnh liệt giữa nam và nữ, thường để chỉ mối quan hệ nam nữ bất chính… đại loại như, hai bên lao vào nhau như củi khô lâu ngày gặp lửa vân vân). => Khiếp cái giải thik?
Cản tận sát tuyệt – 赶尽杀绝 – gǎn jìn shā jué (đuổi cùng giết tận–> jaja chép lại câu này chứng tỏ đang đọc truyện chưởng đây :-P).
Cận thủy lâu đài tiên đắc nguyệt – 近水楼台先得月 – jìn shuǐ lóu tái xiān dé yuè (ở lầu gần nước nhìn thấy ánh trăng đầu tiên–> xuất phát từ 1 bài thơ thì phải –> tóm lại là ở gần người giàu có quyền thế/ sự vật thuận lợi thì là người đầu tiên được hưởng lợi ích). => Điển tích này về ông Phạm Trọng Yêm, làm quan to nhiều việc lớn, nên quên mất cất nhắc 1 số tay chân (người ta gọi là cái j khách ấy nhỉ, người mà cứ đến đầu nhập dưới trướng 1 người khác ấy). 1 ông tay chân bèn viết 1 bài thơ, trong đó có câu trên, để oán trách là mình ko dc cận kề nên bị quên mất rồi. PTY đọc xong, có thăng chức cho ông này Liên quan tới PTY, nhà này có 1 người hâm mộ bác ấy vì cái tinh thần, lo trước nỗi lo of thiên hạ, mừng sau nỗi vui của thiên hạ…  mà người này, hiện nay đang là “công bộc của dân”, cho nên là… nhân dân có phúc rồi
Cao cao tại thượng – 高高在上 – gāo gāo zài shàng (cao cao ở phía trên, chỉ địa vị cao, còn để chỉ lãnh đạo xa rời quần chúng, xa rời thực tế) –> có lẽ nên có câu Cao cao tại hạ để chỉ bọn nghiên cứu chính trị dở hơi, nói chuyện chính trị như bốc phét, nhưng mà ko có tiền có quyền để tại thượng –> thảm?. => Hay đấy?
Cao chẩm vô ưu – 高枕无忧 – gāo zhěn wú yōu (gối cao không lo lắng –> mọi việc đã sắp xếp chu đáo, an tâm, ko cần phải lo lắng).
Cao sơn lưu thủy – 高山流水 – gāo shān liú shuǐ (núi cao nước chảy – xuất phát từ câu chuyện Bá Nha – Tử Kỳ, Chung tử Kỳ nghe đàn Bá Nha biết Bá Nha nghĩ đến núi cao, nước chảy –> chỉ tri âm tri kỷ, tất nhiên còn để chỉ cảnh đẹp thiên nhiên).
Cao thâm mạc trắc – 高深莫测 – gāo shēn mò cè (hình dung trình độ cao thâm ko thể đo lường, người khác không thể hiểu được).
Cao xứ bất thắng hàn – 高处不胜寒 – gāo chù bù shèng hán (xuất từ bài Thủy điệu ca đầu của Tô Thức nhé, bài có câu Đãn nguyện nhân trường cửu, Thiên lý cộng thiền quyên ý. Nghĩa đen là ở trên vị trí cao  không thắng nổi (chịu nổi) phong hàn lạnh lẽo. Còn nghĩa ẩn dụ là người chức cao quyền trọng sẽ ko tránh được phải chịu cảnh cô đơn lạnh lẽo, ko có bạn tri kỷ, hoặc đơn giản hơn là người tài nghệ, tu vi đạt đến cảnh giới càng cao thâm càng ít bạn…). – Nhắc đến cái đoạn, tu vi đạt đến cảnh giới cao => ko có tri kỷ, ko ai hiểu, lại nhớ tới anh Tống Ngọc, ko ai khen ảnh là do nx thứ ảnh nói quá cao thâm, ko ai đủ trình mà hiểu? Ngoài lề: Hồi xưa cứ nghĩ anh này là hạng đẹp mã, khí chất tựa thiên tiên, ko ăn thức ăn loài người, ko ngờ thực tế lại có vẻ tài năng đáo để (lại có vẻ xấu tính nữa :P).
Cát nhân thiên tướng – 吉人天相 – jí rén tiān xiàng (cát nhân: người thiện lương có phúc khí, thiên tướng: được trời giúp đỡ; tướng [động từ]: giúp đỡ –> người tốt sẽ được trời giúp đỡ).
Cẩm thượng thiêm hoa  – 锦上添花 – jǐn shàng tiān huā / Tuyết trung tống thán- 雪中送炭 – xuě zhōng sòng tàn (câu đầu tiên là trên gấm thêu thêm hoa, thấy mạng ghi là xuất phát từ 1 câu thơ của Vương An Thạch, ý tứ là đã tốt rồi còn làm tốt thêm, đã đẹp rồi còn làm đẹp thêm. Thấy thiên hạ hay đặt ngược nghĩa với câu thứ hai là trong tuyết tặng than (để sưởi ấm), tức là giúp đỡ người khác trong lúc người ta cần. Hic, rất đa nghĩa, tùy theo cách nói, ngữ cảnh. Kiểu như là cẩm thượng thiêm hoa không bằng tuyết trung tống thán,  tức là hành động lúc người ta xuân phong đắc ý rồi tặng thêm đồ tốt không bằng được hành động giúp đỡ  người ta lúc khó khăn; hay nói cẩm thượng thiêm hoa thì dễ, tuyết trung tống thán thì khó; hay là hay thấy cẩm thượng thiêm hoa, ít thấy tuyết trung tống thán; hay là lúc này thứ cần làm ko phải là cẩm thượng thiêm hoa, mà là tuyết trung tống thán).
Cẩu giảo Lã Động Tân, bất thức hảo nhân tâm – 狗咬吕洞宾,不识好人心 – gǒu yǎo lǚ dòng bīn,bù shí hǎo rén xīn (Lã Động Tân: 1 trong tám vị tiên; chó cắn Lã Động Tân, không biết lòng người tốt; Lã động Tân làm việc thiện mà vẫn bị chó cắn –> dùng để mắng người ko biết người tốt). => Câu này ở vn, có 1 câu tương tự, gọi là “Toàn nghĩ xấu cho người tốt”, tuy nhiên, thực tế trong đời sống, thì bạn AC thường hay phải áp dụng câu, “Toàn nghĩ tốt cho người xấu”.
Chân kim bất phạ hỏa – 真金不怕火 – zhēn jīn bù pà huǒ (vàng thật ko sợ lửa).
Chân nhân bất lộ tướng – 真人不露相 – zhēn rén bù lòu xiàng (xuất từ  Tây du ký đấy, đọc kiếm hiệp sẽ hay gặp câu này, đại loại là người giỏi giang đắc đạo hoặc có thân phận này kia không để lộ ra trước mặt người khác).
Chấp mê bất ngộ – 執迷不悟- zhí mí bù wù (cứ giữ lấy sự mê muội mà ko hiểu ra).
Chỉ bao bất trú (trụ) hỏa – 纸包不住火 – zhǐ bāo bù zhù huǒ (giấy ko gói được lửa).
Chỉ hứa châu quan phóng hỏa, bất hứa bách tính điểm đăng – 只许州官放火,不许百姓点灯 – zhǐ xǔ zhōu guān fàng huǒ,bù xǔ bǎi xìng diǎn dēng (để cho quan viên có thể phóng hỏa, nhưng ko cho phép dân thường đốt đèn  –> xuất phát từ 1 câu chuyện nào đó thời bắc Tống –> tóm lại là dung túng cho quan lại làm gì cũng được, còn dân thường đén sinh hoạt bình thường, hoạt động chính đáng cũng bị hạn chế. Nay còn để chỉ mình muốn làm gì thì làm, ko đếm xỉa đến quyền lợi chính đáng của người khác).
Chỉ lộc vi mã – 指鹿为马 – zhǐ lù wéi mǎ (Chỉ hươu nói (là) ngựa. Xuất từ Sử ký, Tần Thủy Hoàng bản kỷ. Chuyện thái giám Triệu Cao chỉ con hươu nói đây là con ngựa để xem quan viên triều đình ai thuận theo mình, ai dám chống đối. Nói chung dùng để chỉ người đảo lộn trắng đen).
Chỉ tang mạ hòe – 指桑骂槐 – zhǐ sāng mà huái (chỉ cây dâu mắng cây hòe = chỉ kê mạ cẩu – 指鸡骂狗 – chỉ gà mắng chó = chỉ chó mắng mèo, kinh, còn thấy gi là kế thứ 26 trong 36 kế).
Chỉ thượng đàm binh – 纸上谈兵 – zhǐ shàng tán bīng (đàm luận binh pháp trên giấy, xuất từ  Sử ký, Liêm Pha Lạn Tương Như  liệt truyện, ghi lại trận chiến Trường Bình nổi tiếng mà nước Triệu cử 1 anh học giỏi binh pháp, có tài hùng biện nhưng thiếu kinh nghiệm thực tế làm tướng đánh nhau với quân Tần, kết quả là bị Tần đánh cho đại bại, ai xem truyện Tầm Tần ký có nhắc đến – ý nghĩa tóm lại là lý luận suông, ko giải quyết được vấn đề thực tế).
Chỉ trọng y sam bất trọng nhân – 只重衣衫不重人 – zhǐ zhòng yī shān bù zhòng rén (chỉ xem trọng trang phục, ko trọng người –> chỉ trọng người qua hình thức bên ngoài).
Chỉ yếu thuyền đầu tọa đắc ổn, Bất phạ tứ diện lãng lai điên – 只要船头坐得稳,不怕四面浪来颠 – zhǐ yào chuán tóu zuò dé  wěn, bù pà sì miàn làng  lái diān (chỉ cần đầu thuyền ngồi vững vàng, không sợ bốn mặt sóng điên đảo –> hic, về ý tứ có thể hiểu được,  nhưng đêm khuya rồi, ko sao viết thành lời).
Chúng tinh phủng nguyệt – 众星捧月 – zhòng xīng pěng yuè (chữ trong Luận ngữ; phủng có nghĩa là bưng, nâng, bế, ôm; đại loại là một đám sao  tôn lên ánh trăng, giống như một đám người vây quanh ủng hộ một ai đó mà họ tôn kính quý trọng, tiếng A: all the stars twinkle around the moon–regard something or somebody as a core).
Chuyển bại vi thắng – 转败为胜 – zhuǎn bài wéi shèng (chuyển bại thành thắng).
Chưởng thượng minh châu – 掌上明珠 – zhǎng shàng míng zhū (như viên ngọc quý trên tay –> chỉ người được yêu thương hết mực, thường chỉ con gái rượu).
Cơ bất khả thất, thất bất tái lai – 机不可失,失不再来 – jī bù kě shī,shī bù zài lái (cơ hội ko thể bỏ qua, bỏ qua cơ hội sẽ ko đến lại nữa).
Cố đầu bất cố vĩ – 顾头不顾尾 – gù tóu bù gù wěi (chỉ chú ý đến đầu mà ko chú ý đến đuôi, nói chung là làm việc ko suy nghĩ chu toàn. Chữ trong Hồng Lâu Mộng, hồi 6).
Cổ vãng kim lai – 古往今来 – gǔ wǎng jīn lái (từ xưa tới nay).
Cúc cung tận tụy – 鞠躬尽瘁 – jū gōng jìn cuì (để chỉ Gia Cát Lượng của bạn Dật Ly này Cúi gập thân mình xuống (cúc cung), chịu hết cách khó nhọc (tụy: nhọc nhằn, lao khổ)–>hết sức hết lòng phụng sự theo đuổi sự nghiệp cách mạng).
Cư an tư nguy- 居安思危 –  jū ān sī wēi (đang lúc yên ổn phải nghĩ đến lúc nguy cấp để phòng bị).
Cư cao lâm hạ – 居高临下 – jū gāo lín xià (ở trên chỗ cao nhìn xuống – hình dung ở vào địa thế vô cùng có lợi).
Cử án tề mi –  举案齐眉 – jǔ àn qí méi (nâng mâm ngang mày – chỉ vợ chồng tôn kính lẫn nhau). Tích xưa là có 1 bà nào đó hồi xưa, bưng cơm cho chồng là phải bưng cái khay lên ngang my, chắc là người cũng phải hơi quỳ quỳ xuống. Đời sau khen ngợi là tấm gương vợ tốt. Đúng là thời xưa khinh thường phụ nữ quá, khổ thật.?
Cử thủ chi lao – 举手之劳 – jǔ shǒu zhī láo (để chỉ việc nhẹ và dễ, không tốn tý sức lực nào, chỉ bằng công sức nhấc cánh tay lên. Vn mình hay nói là dễ như trở bàn tay?? Hay đọc thấy trong tình huống là làm việc gì giúp đỡ người khác, được người ta cảm ơn, thì khiêm tốn nói là chỉ là cử thủ chi lao mà thôi… đại loại thế).
Cường long bất áp địa đầu xà – 强龙不压地头蛇 – qiáng lóng bù yā dì tóu shé (rồng cũng khó thắng được rắn địa phương –> phép vua thua lệ làng là đây).
Cường tướng thủ hạ vô nhược binh – 强将手下无弱兵 – qiáng jiàng shǒu xià wú ruò bīng (dưới tay tướng giỏi ko có binh yếu).
Cưỡng từ đoạt lý – 强词夺理 – qiǎng cí duó lǐ (cũng là chữ xuất xứ từ Tam Quốc diễn nghĩa, vô lý cưỡng biện, không có lý nói thành có lý).
Cửu bình (trang) tân tửu – 旧瓶装新酒 – jiù píng zhuāng xīn jiǔ (bình cũ rượu mới).
Cửu tử nhất sinh –  九死一生 – jiǔ sǐ yī shēng (chín phần chết, chỉ còn 1 phần sống –> nguy hiểm).
Cựu hận tân cừu – Tân cừu cựu hận – 旧恨新仇 – jiù hèn xīn chóu (hận cũ thù mới –> thù chồng chất oán thù).
Danh chính ngôn thuận –
Danh y bất năng tự trị – 名医不能自治 (ngạn ngữ, thầy thuốc giỏi cũng ko thể tự chữa cho mình, hình như gần nghĩa bụt chùa nhà không thiêng, gần nghĩa thôi nhé). Thầy bói ko tự xem cho mình, tiên tri ko thấy mua xổ số bao g?
Dân dĩ thực vi thiên – 民以食为天 – mín yǐ shí wéi tiān (dân coi lương thực là trời, xuất phát từ Hán thư, 王者以民为天,而民以食为天 vương giả dĩ dân vi thiên, nhi dân dĩ thực vi thiên)
Dẫn quỷ thướng môn – 引鬼上门 – yǐn guǐ shàng mén (dẫn quỷ vào nhà). Eo ơi!
Di hoa tiếp mộc – 移花接木 – yí huā jiē mù (lấy một loại hoa gắn vào 1 cây khác – hình dung ngầm dùng thủ đoạn đánh tráo người hoặc vật để lừa người khác – hình như liên quan gì đó đến truyện Xuân thân Quân – Lý Viên – Lý Yên Yên nước Sở thời chiến quốc – cũng kiểu làm cho mỹ nhân có thai rồi đem vào tặng vua để con mình sau này đăng cơ – Ai thích thì check). Các bạn TQ có vẻ thích cái trò này nhỉ
Dĩ đức báo oán – 以德报怨 – yǐ dé bào yuàn (hoặc ngược lại Dĩ oán báo đức).
Dĩ quyền mưu tư – 以权谋私 – yǐ quán móu sī (dựa vào quyền lực mưu đồ tư lợi)
Dĩ thủ vi công – 以守为攻 – yǐ shǒu wéi gōng (lấy phòng thủ làm tấn công).
Dĩ tiểu nhân chi tâm, độ quân tử chi phúc – 以小人之心,度君子之腹 – yǐ xiǎo rén zhī xīn,duó jūn zǐ zhī fù (dùng dạ tiểu nhân đo lòng quân tử). Hòa theo phong trào phê bình và tự phê bình: Haizzz, câu này mình hơi bị quán triệt?
Dị khẩu đồng thanh – 异口同声 – yì kǒu tóng shēng (hình dung nhiều người có cùng một tiếng nói/ ý kiến).
Dị như phản chưởng – 易如反掌 – yì rú fǎn zhǎng (dễ như trở bàn tay).
Diệu vũ dương uy – 耀武揚威 – yào wǔ yáng wēi (diễu võ giương oai).
Dục tốc bất đạt – 欲速不达 – yù sù bù dá.
Dụng tâm lương khổ – 用心良苦 – yòng xīn liáng kǔ (lương: rất, tóm lại là phải dùng nhiều tâm tư trí lực để suy đi tính lại).
Dương dương đắc ý – 洋洋得意 –  yáng yáng dé yì.
Dưỡng hổ tự di hoạn – 养虎自遗患 – yǎng hǔ zì yí huàn (nuôi hổ tự để lại hậu hoạn – > dung dưỡng địch nhân là tự vác họa vào thân).
Đa hành bất nghĩa tất tự tễ – 多行不义必自毙 – duō xíng bù yì bì zì bì (xuất tự Tả truyện, làm nhiều điều bất nghĩa tất tự thất bại, tễ (động từ) có nghĩa là ngã, thất bại, chết, hoặc giết, hic, do đó có thể hiểu là làm nhiều chuyện bất nghĩa tất như tự giết mình???)
Đa sầu đa bệnh – 多愁多病 – duō chóu duō bìng.
Đa tài đa nghệ – 多才多艺 – duō cái duō yì.
Đả bão bất bình – 打抱不平 – dǎ bào bù píng (thấy chuyện bất công, khẳng khái can thiệp để bênh vực người chịu thiệt thòi).
Đả thảo kinh xà – 打草惊蛇 – dǎ cǎo jīng shé (đánh cỏ động rắn, kế thứ 13 trong 36 kế).
Đả xà bất tử, hậu hoạn vô cùng – 打蛇不死,后患无穷 – dǎ shé bù sǐ, hòu huàn wú qióng (đánh rắn ko chết, để lại vô số hậu hoạn). => Câu này nghe thực kinh dị nhưng cũng khá quen thuộc trong văn hóa Vn, rắn là con vật mang thù rất sâu (vd, chuyện về thần tượng cụ NT của ai đó).
Đại bi vô lệ, đại ngộ vô ngôn, đại tiếu vô thanh – 大悲无泪,大悟无言,大笑无声 (có vẻ như chẳng xuất phát từ kinh điển nào, nhưng hay được gắn cho Phật giáo). => Câu này nghĩa là j? –> hic, hôm nọ giải thích rồi đấy, đại loại là bi thương đến mức ko khóc ra được, hoặc là ko thể dùng nước mắt  (bình thường) để biểu đạt được, các vế sau cách giải nghĩa tương tự (có version cho rằng bi ở đây trong từ bi, nhưng phần đông??? nghiêng về nghĩa là bi thương).
Đại cát đại lợi – 大吉大利 – dà jí dà lì.
Đại đồng tiểu dị – 大同小异 – dà tóng xiǎo yì (đại thể là giống nhau, chỉ có khác biệt nhỏ).
Đại nạn bất tử tất hữu hậu phúc – 大难不死,必有后福 – dà nàn bù sǐ,bì yǒu hòu fú (đọc truyện chưởng cũng hay thấy câu này này, do truyện nào chẳng có vài cảnh anh hùng suýt chết – gặp đại nạn ko chết sau này tất có phúc).
Đại nhân đại nghĩa – 大仁大义 – dà rén dà yì.
Đại nhân (hữu )đại lượng – 大人有大量 – dàren yǒu dà liàng (tục ngữ, đại loại là người lớn có lòng bao dung lớn [tha thứ cho người khác, ko chấp tiểu nhân vân vân]).
Đại nghĩa diệt thân – 大义灭亲 – dà yì miè qīn.
Đại ngư cật tiểu ngư, tiểu ngư cật hà mễ – 大鱼吃小鱼,小鱼吃虾米 (ngạn ngữ, cá lớn nuốt cá bé, cá bé nuốt tôm).
Đại sự hóa tiểu, tiểu sự hóa vô – 大事化小,小事化无, hoặc tiểu sự hóa liễu 小事化了 (ngạn ngữ, biến việc to thành việc nhỏ, việc nhỏ thành ko có gì).
Đại thất sở vọng – 大失所望 – dà shī suǒ wàng (tất cả nguyện vọng ban đầu đều mất cả).
Đại trí nhược ngu – 大智若愚 – dà zhì ruò yú (xuất từ Tống,  Tô Thức, Hạn Âu Dương thiếu sư trí sỹ khải;  nhược: dường như, tựa hồ; bậc đại trí nhìn bề ngoài có vẻ như ngu dốt, do bậc đại trí đã vượt qua khả năng lý giải của người bình thường, nên ngôn ngữ hành động hay bị cho là ngu độn).
Đại trượng phu năng khuất năng thân – 大丈夫能屈能伸 – dà zhàngfu néng qū néng shēn (hoặc rút ngắn thành Năng khuất năng thân; xuất tự Kinh dịch, Đại trượng phu có thể co có thể duỗi – khỏi cần giải thích nhỉ? btw thì tiếng Anh đây A leader can submit or can stand tall as required. / ready to give and take /flexible).
Đao tử chủy ba, đậu hũ tâm – 刀子嘴巴,豆腐心 – dāozi zuǐ ba, dòufu xīn (miệng đao, lòng đậu hũ, đồng nghĩa khẩu xà tâm phật).
Đào lý mãn thiên hạ – 桃李满天下 – táo lǐ mǎn tiān xià (đào lê khắp thiên hạ –> đại loại là chỉ nhân tài hậu bối rất nhiều chỗ nào cũng gặp) –> khiếp các bạn TQ dân số đông cái gì cũng mãn thiên hạ. => Câu này, có lẽ vốn để miêu tả 1 người có thế lực lớn, thông qua hệ thống “chân rết” tay chân ở khắp các ngành nghề. Tích này là từ việc có người nhận xét (nhạo báng?) về ông Địch Nhân Kiệt (thời Võ tắc thiên), là trong triều, các quan lại, đại thần có tài có thế thì đều là do ông Kiệt tiến cử cả (ý là phe cánh mạnh). Ông Kiệt nói, tôi tiến cử là cho quốc gia, chứ có cho riêng tôi đâu?. Tuy nhiên, về sau, cụm này thường dùng để miêu tả các giáo viên giỏi, có nhiều học sinh thành đạt khắp nơi –> cảm ơn giải thích.
Đạo bất đồng bất tương vi mưu – 道不同不相为谋 – dào bù tóng bù xiāng wéi móu (tóm lại là ý kiến chí hướng ko giống nhau thì ko thể cùng làm việc).
Đạp phá thiết hài vô mịch xứ, Đắc lai toàn bất phí công phu – 踏破铁鞋无觅处,得来全不费功夫 – tà pò tiě xié wú mì chù,dé lái quán bù fèi gōngfù (đi mòn cả giày sắt mà không tìm thấy, (trong lúc vô ý) không tốn sức lại tìm ra- cũng xuất phát từ bài tên Tuyệt Cú thời nam Tống, nhưng lười ko ghi lại cụ thể ở đây). Câu ngày hay nhỉ, giống đứng đợi taxi, lúc cần thì toàn thấy bị hired rồi
Đắc chi, ngô hạnh, thất chi, ngô mệnh -得之,吾幸,失之,吾命 (câu này là đọc được trong 1 quyển truyện ngôn tình nào đó, lên mạng check thì các bạn TQ bảo là câu này của Từ Chí Ma, mà anh này là nhà thơ lớn của TQ hồi đầu thế kỷ 20, tiểu sử tiếng Anh ở đây, đã từng có phim truyền hình về anh này chiếu ở VN rồi đấy ạ (Châu Tấn đóng chị người yêu thứ 2). Ngô kia có nghĩa là tôi ạ (tiếng Quảng???). Nguyên 1 câu của anh ý ý tứ như thế này: Tôi sẽ trong biển người mênh mông tìm một tri kỷ duy nhất, được, thì là hạnh vận của tôi, không được, là số mệnh của tôi).
Đầu cơ thủ xảo – 投机取巧 – tóu jī qǔ qiǎo (lợi dụng thời cơ và dùng thủ đoạn giảo hoạt, thiếu chính đáng để trục tư lợi, cũng để chỉ dùng sự khôn lỏi để đạt lợi ích. Đang đọc lại Sở Lưu Hương, Biển bức truyền kỳ vợt được cụm này, trong 1 câu Hồ Thiết Hoa nói, đại loại là, AAA tính là thắng đi nữa, cũng chẳng thắng quang vinh gì. Ta thấy loại biện pháp đầu cơ thủ xảo thế này, đại khái cũng chẳng phải do hắn tự nghĩ ra. Hehe người VN chúng ta là rất nổi tiếng với ngón nghề này [07/04/ 2013]).
Điểu tận cung tàng – 鸟尽弓藏 – niǎo jìn gōng cáng (chim hết, cất cung).
Đình thụ bất tri nhân khứ tận, Xuân lai hoàn phát cựu thì hoa – 庭树不知人去尽, 春来还发旧时花 (Sầm Tham: Cây sân chẳng biết người đi hết, Xuân tới hoa xưa vẫn nở đều). => Câu này nghe hay ghê nhỉ, ko biết có nằm trong bài thơ nào hay ko? –> Sơn phòng xuân sự (thất ngôn tứ tuyệt).
Đính thiên lập địa –  顶天立地- dǐng tiān lì dì (đội trời đạp đất).
Độc lai độc vãng – 独来独往 – dú lái dú wǎng.
Độc mộc bất thành lâm – 独木不成林 – dú mù bù chéng lín (một cây không làm nên rừng).
Độc thụ nhất xí – 独树一帜 – dú shù yī zhì (Thụ ở đây là động từ??? có nghĩa là trồng, dựng lên, kiến lập –> đơn độc dựng lên 1 cái cờ –> tự dựng nên 1 phong cách, chủ trương, trường phái riêng; cũng có từ điển giải nghĩa là cắm 1 cái cờ trên 1 cái cây đơn độc, nhưng về mặt ý nghĩa thì ko đổi –> ai đó check kỹ coi :-().
Đối ngưu đàn cầm – 对牛弹琴 – duì niú tán qín (đàn gảy tai trâu).
Đồng bệnh tương liên/ Đồng bệnh tương lân – 同病相怜 – tóng bìng xiāng lián (cùng bệnh cùng thương – cùng cảnh ngộ mà thương xót giúp đỡ nhau).
Đồng cam cộng khổ – 同甘共苦 – tóng gān gòng kǔ.
Đồng quy vu tận – 同归于尽 – tóng guī yú jìn.
Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu – 同声相应,同气相求 – tóng shēng xiāng yìng,tóng qì xiāng qiú.
Đức cao vọng trọng – 德高望重 – dé gāo wàng zhòng.
Đương cục giả mê, bàng quan giả thanh – 当局者迷,旁观者清 – dāng jú zhě mí,páng guān zhě qīng (người trong cuộc mê muội, người bên ngoài rõ ràng minh bạch).
Giải linh hoàn tu hệ linh nhân – 解铃还须系铃人 – jiě líng hái xū xì líng rén (cởi chuông cần đến người buộc chuông [chữ “tu” còn có thể thay bằng “thị”, hoặc “dụng”. Giải linh hoàn thị hệ linh nhân; Giải linh hoàn dụng hệ linh nhân]).
Giang san dị cải, bản tính nan di – 江山易改,本性难移 – jiāng shān yì gǎi,běn xìng nán yí (núi sông dễ đổi bản tính khó dời).
Giảo nhân cẩu nhi bất lộ xỉ – 咬人狗儿不露齿 – yǎo rén gǒu ér bù lòu chǐ (con chó nào cắn người thì ko lộ răng, hàm ý người thực sự lợi hại ko để lộ ra ngoài).
Hải để lao châm – 海底捞针 – hǎi dǐ lāo zhēn (đáy bể mò kim).
Hàm tình mạch mạch – 含情脉脉 (mạch mạch: đăm đắm –> (ánh mắt) chứa đầy tình ý –> hình như đang đọc truyện ngôn tình đây :D).
Hành vân lưu thủy – 行云流水 – xíng yún liú shuǐ (nước chảy mây trôi – như nước chảy mây trôi – thường để chỉ văn chương thơ ca  tự nhiên lưu loát, ko chịu câu thúc, cũng để chỉ sự vật lưu chuyển không ngừng, trôi qua ko quay trở lại).
Hạnh tai lạc họa – 幸灾乐祸 – xìng zāi lè huò (hạnh phúc vui mừng trước tai ương, đau khổ của người khác).
Hảo hán bất phạ xuất thân đê – 好汉不怕出身低 – hǎohàn bùpà chūshēn dī (ngạn ngữ, hảo hán ko sợ xuất thân thấp kém). Hảo hán là sao nhỉ, có liên quan j tới quân tử? Hay là hảo hán là term của văn hóa quần chúng chung chung, còn quân tử là term riêng của Khổng giáo. Thấy hảo hán cứ có ấn tượng là đánh nhau giỏi ấy?, trong khi đó, quân tử lại nhấn mạnh hơn mấy cái ý – lễ nghĩa…. này nọ??? –> discourse analysis hay!!!
Hảo tửu hồng nhân diện, tài bạch động nhân tâm – 好酒红人面,财帛动人心 (ngạn ngữ, hình như nguyên tác là thế này 清酒红人脸,钱帛动人心 [thanh tửu], rượu ngon đỏ mặt người, tiền tài động lòng người).
Hắc bạch phân minh – 黑白分明 – hēi bái fēn míng.
Hầu môn tự hải – 侯门似海 – hóu mén sì hǎi (nhà của vương công quý tộc quan lại thâm sâu, thâm nghiêm phức tạp khó dò tựa biển, người thường ko dễ mà đi ra đi vào, mà xoay sở trong đó, thấy hay dùng theo nghĩa bóng, là việc nhà, mối quan hệ trong gia đình quyền quý thường phức tạp).
Hậu lãng thôi tiền lãng – 后浪推前浪 – hòu làng tuī qián làng (sóng sau dồn sóng trước –> sự việc đến dồn dập ko dừng; còn 1 nghĩa giống hậu sinh khả úy???).
Hậu sinh khả úy – 后生可畏 – hòu shēng kě wèi.
Hỉ tân yếm cựu – 喜新厌旧 – xǐ xīn yàn jiù (thích mới chán cũ, dùng để chỉ tình cảm ko chung thủy trước sau, có mới nới cũ).
Hiệp thiên tử dĩ lệnh chư hầu – 挟天子以令诸侯 – xié tiān zǐ yǐ lìng zhū hóu (kiềm chế vua để điều khiển chư hầu –> lại Tam quốc).
Hình đơn (đan) ảnh chỉ – 形单影只 – xíng dān yǐng zhī (chỉ có mỗi hình ảnh đơn chiếc của mình –> hình dung cô độc ko có ai bên cạnh).
Hoa ngôn xảo ngữ – 花言巧语 – huā yán qiǎo yǔ.
Hoa tiền nguyệt hạ – 花前月下 – huā qián yuè xià (trước hoa dưới trăng, chỉ những nơi nam nữ tỏ tình, nói chuyện tình yêu. Xuất xứ từ thơ của Bạch cư Dị hẳn hoi: Tận thích sanh ca dạ túy miên, Nhược phi nguyệt hạ tức hoa tiền; nhớ trong truyện ngôn tình viết thế này: cũng muốn cùng chàng hoa tiền nguyệt hạ một phen…).
Hoa vô bách nhật hồng – 花无百日红 – huā wú bǎi rì hóng (hoa ko thể nở mãi không tàn, cũng như tình thế hoàn cảnh ko thể tốt mãi được). => Thường có câu, “Nhân vô thiên nhật hảo, hoa vô bách nhật hồng”. Có nghĩa là ko ai có thể sung sướng dc mãi, sông có khúc, ng có lúc. Lại có thể hiểu ra thành, người ko thể tốt mãi, mà sẽ có ngày biến xấu, hoa ko thể thắm suốt, mà rồi sẽ héo tàn? (Dĩ nhiên, cách hiểu số 2, là do bạn DL xấu tính, thường hay nghĩ xấu về người tốt thì mới diễn giải theo hướng này) –> hoàn toàn đồng ý với bạn DL!!!?
Họa xà thiêm túc – 画蛇添足 – huà shé tiān zú (vẽ rắn thêm chân).
Hoan thiên hỷ địa 欢天喜地 – huān tiān xǐ dì (hình dung cực kỳ vui mừng).
Hoàng thiên bất phụ hữu tâm nhân – 皇天不负有心人 – huáng tiān bù fù yǒu xīn rén (trời không phụ người có lòng. Còn là Hoàng thiên bất phụ khổ tâm nhân).
Hoành đao đoạt ái – 横刀夺爱  – héng dāo duó ài (cầm ngang đao đoạt ái tình – đại loại là chỉ người thứ 3 vô duyên nhảy vào công nhiên cướp đoạt ái tình của người khác). => Nghe hay nhỉ?
Học nhi thời tập chi – 学而时习之 – xué ér shí xí zhī (chữ trong Luận ngữ – học phải đi đôi với hành).
Hồ tư loạn tưởng – 胡思乱想 – hú sī luàn xiǎng (tóm lại là mộng tưởng lung tung)
Hổ đầu xà vĩ – 虎头蛇尾 – hǔ tóu shé wěi (đầu hổ đuôi rắn = đầu voi đuôi chuột).
Hổ lạc bình dương bị khuyển khi  – 虎落平阳被犬欺  – hǔ luò píng yáng bèi quǎn qī (bình dương: chỗ bằng phẳng; hổ rơi vào chốn bình địa, đến chó cũng có thể khi rẻ. Còn thấy ghép trong 1 câu là Long du thiển thủy tao hà hý, Hổ lạc bình dương bị khuyển khi – 龙游浅水遭虾戏,虎落平阳被犬欺. Vế thứ nhất có nghĩa rồng bơi vào chỗ nước cạn bị tôm đùa bỡn. Nói chung là nỗi bi ai của người bị thất thế).
Hồn phi phách tán – 魂飞魄散 – hún fēi pò sàn
Hỗn thủy mạc ngư – 混水摸鱼 – hún shuǐ mō yú hoặc Hồn thủy mạc ngư – 浑水摸鱼 – hún shuǐ mō yú (bắt (trộm) cá trong đám hỗn độn, thừa nước đục thả câu, nói chung là thừa lúc hỗn loạn để vơ vét kiếm chác những lợi ích ko chính đáng. Thấy ghi là kế thứ 20 trong 36 kế [sao mình đọc rồi mà ko nhớ nhỉ], cũng ghi là xuất từ truyện Tam quốc diễn nghĩa, đoạn mà sau Xích bích Khổng Minh thần tượng của con chim lợi dụng Chu lang của ta đánh nhau hộc máu với Tào Nhân hớt luôn Kinh châu ý).
Hồng hạnh xuất tường – 红杏出墙 – hóng xìng chū qiáng (xuất xứ: bài Du viên bất trị của Diệp thiệu Ông đời Tống: 春色满园关不住,一支红杏出墙来 Xuân sắc mãn viên quan bất trụ, Nhất chi hồng hạnh xuất tường lai; sắc xuân đầy vườn giam giữ lại không nổi, để một cành hồng hành vươn ra ngoài tường; dùng để hình dung phụ nữ đã có chồng nhưng còn lăng nhăng với người khác, hì hì, thơ rất ý vị, ko biết nhà thơ nếu sống lại, biết thơ của mình được đời sau dùng đển ẩn dụ chuyện gì, có chết ngất ra ko). => Tức chết?.
Hủ mộc bất khả điêu dã – 朽木不可雕也 – xiǔ mù bù kě diāoyě (chữ trong Luận ngữ, Công dã Tràng, nghĩa là gỗ mục không thể chạm khắc được. Còn rút gọn thành 4 chữ Hủ mục nan điêu, dùng để hình dung người ko thể làm nên thành công gì, hoặc sự vật, cục thế hư hoại không thể cứu vãn được). Giống như kiểu phò ko được A Đẩu j j đó nhỉ
Hữu danh vô thực – 有名无实 – yǒu míng wú shí.
Hữu dũng vô mưu – 有勇无谋 – yǒu yǒng wú móu.
Hữu khẩu vô tâm – 有口无心 – yǒu kǒu wú xīn (miệng nói ra nhưng lòng ko nghĩ như thế).
Hữu mục như manh – 有目如盲 – yǒu yǎn rú máng (có mắt như mù).
Hữu nhãn vô châu – 有眼无珠 – yǒu yǎn wú zhū (có mắt mà ko có tròng).
Hữu tiền năng sử quỷ thôi ma – 有钱能使鬼推磨 – yǒu qián néng shǐ guǐ tuī mò (có tiền có thể sai khiến được cả ma quỷ).
Hữu ý tài hoa hoa bất phát, Vô tâm sáp liễu liễu thành âm – 有意栽花花不发,无心插柳柳成阴 – yǒuyì zāi huā huā bù fā ,wúxīn chā liǔ liǔ chéng yīn (có ý trồng hoa hoa không nở, vô tâm cắm cành liễu xuống đất liễu mọc rợp thành bóng râm. Để nghe cho văn vẻ thì có thể thế này: Có ý trồng hoa hoa không nở, Vô tâm cắm liễu liễu rợp trời –> nói chung là ko gì như mong đợi, lên kế hoạch thì thất bại, thành công lại đến từ thứ ko ngờ). => Câu này cứ là để tung hô amateurism, chủ nghĩa nghiệp dư.
Khao sơn cật sơn, khao thủy cật thủy – 靠山吃山,靠水吃水 – kào shān chī shān,kào shuǐ chī shuǐ (ở núi ăn núi, ở nước ăn nước; nói chung là sống ở đâu thì dựa vào điều kiện ở đó mà sống. Tán nhảm, ở núi thì ăn thịt thú rừng, ở sông ở biển ăn tôm cá hải sản, còn ở thành phố quá tải dân ăn gì? ăn thịt người???? –> đầu óc đang có chút realism). => Suy diễn thực bịnh hoạn
Khấp bất thành thanh – 泣不成声 – qì bù chéng shēng (khóc không ra tiếng).
Khẩu mật phúc kiếm – 口蜜腹剑 – kǒu mì fù jiàn (miệng nói như mật ngọt mà bụng chứa đầy gươm đao).
Khẩu thị tâm phi –  口是心非 – kǒu shì xīn fēi (miệng nói 1 đằng, lòng nghĩ một nẻo).
Khinh cử vọng động – 轻举妄动 – qīng jǔ wàng dòng (vọng: càn, tùy tiện, tóm lại là hành động lỗ mãng ko chịu suy nghĩ trước sau).
Khinh miêu đạm tả – 轻描淡写 – qīng miáo dàn xiě (lười giải thích, thôi copy luôn giải thích tiếng Anh ở đây cho tiện: to catch in light shades, to play down, to deemphasize).
Khổ hải vô biên, hồi đầu thị ngạn – 苦海无边,回头是岸 – kǔ hǎi wú biān,huí tóu shì àn (câu trong sách Phật, bể khổ vô biên, quay đầu là bờ).
Khổ tận cam lai – 苦尽甘来 – kǔ jìn gān lái.
Khốc tiếu bất đắc – 哭笑不得 – kū xiào bù dé (hình dung tình huống khóc không được, cười không xong, dở khóc dở cười).
Khuynh quốc khuynh thành – 倾国倾城 – qīngguó qīngchéng. Điển cố: Bài thơ của Lý Diên Niên? Nhất kiến khuynh nhân thành, tái kiến khuynh nhân quốc. Nhưng mà có thành nát, nước tan cũng mặc kệ, vì trong đời người giai nhân đâu phải dễ mà thấy được.
Kỉ sở bất dục, vật thi ư nhân – 己所不欲,勿施於人 – jǐ suǒ bù yù,wù shī yú rén (chữ trong Luận ngữ: cái gì mà mình ko muốn thì đừng làm cho người khác).
Kiến phong sử phàm – 见风使帆 – jiàn fēng shǐ fān (nhìn gió xoay buồm –> nhìn thời thế hay sắc mặt người khác mà làm việc).
Kim triêu hữu tửu kim triêu túy – 今朝有酒今朝醉 – jīn zhāo yǒu jiǔ jīn zhāo zuì (hôm nay có rượu hôm nay uống, xuất từ bài Tự khiển của La Ẩn đời Đường).
Kinh thiên động địa –  惊天动地- jīng tiān dòng dì.
Kính hoa thủy nguyệt – 镜花水月 – jìng huā shuǐ yuè (hoa gương trăng nước –>như hoa trong gương, trăng trong nước, nói chung để chi những thứ đẹp đẽ nhưng hư ảo, ko chạm tay đến được. Lại xuất xứ từ 1 bài thơ của Lý Bạch. Nhớ bài Uổng ngưng my -Hoài công biết nhau trong Hồng lâu mộng mà nhóm Vũ Bội Hoàng dịch rất hay- nhưng không sát nghĩa lắm, không nêu được ý kính hoa thủy nguyệt: Nhất cá uổng tự ta nha, Nhất cá không lao khiên quải.Nhất cá thị thuỷ trung nguyệt, Nhất cá thị cảnh trung hoa – Một bên ngầm ngấm than phiền, Một bên theo đuổi hão huyền uổng công. Một bên trăng rọi bên sông, Một bên hoa nở bóng lồng trong gương).
Kỳ hoa dị thảo – 奇花异草 – qí huā yì cǎo (ngoài nghĩa đen, còn để chỉ tác phẩm thơ văn hay).
Kỳ trân dị bảo –  奇珍异宝 – qí zhēn yì bǎo.
Ký hữu kim nhật, hà tất đương sơ – 既有今日,何必当初 – jì yǒu jīn rì,hé bì dāng chū (nếu biết có ngày hôm nay (hối hận), thì sao lúc đầu lại làm như vậy).
Ký lai chi, tắc an chi- 既来之,则安之 –  jì lái zhī,zé ān zhī (câu trong Luận ngữ, Họ [dân] đã (do mình phủ dụ) đến rồi, tất phải làm cho họ được an ổn mà sinh sống, phải an dân, sau còn mang nghĩa Mình đã đến (một nơi nào đó) rồi, thì phải bình tâm/an tâm/ bình tĩnh lại).
Kỵ hổ nan hạ – 骑虎难下 – qí hǔ nán xià (cưỡi trên lưng hổ khó xuống).
Lạc cực sinh bi –  乐极生悲 – lè jí shēng bēi (vui quá hóa buồn, xuất xứ: Hoài Nam tử, Đạo ứng huấn).
Lạc hoa hữu ý, lưu thủy vô tình – 落花有意,流水无情 – luò huā yǒu yì,liú shuǐ wú qíng (hoa rơi cố ý, nước chảy vô tình –> chỉ trong tình cảm, một bên có ý, một bên vô tình).
Lạc tỉnh hạ thạch – 落井下石 – luò jǐng xià shí ((thấy người khác) rơi xuống giếng còn ném thêm đá –> thừa cơ người khác gặp hoạn nạn còn hại thêm).
Lai giả bất thiện, thiện giả bất lai – 来者不善,善者不来 – lái zhě bù shàn,shàn zhě bù lái (đến tức là ko có thiện ý, có thiện ý đã ko đến).
Lánh nhãn tương khan – 另眼相看 – lìng yǎn xiāng kàn (dùng một loại nhãn quang khác để nhìn nhận đối xử, ví dụ như trước ko xem trọng, nhưng sau xem trọng 1 người nào đó).
Lãnh đạm vô tình – 冷淡无情 – lěngdàn wúqíng.
Lâm thì bão Phật cước – 临时抱佛脚 – lín shí bào fó jiǎo (bình thường ko lo chuẩn bị, lúc gặp chuyện mới ôm chân Phật) = Cấp thì bão Phật cước – 急時抱佛腳
Lão mưu thâm toán – 老谋深算 – lǎo móu shēn suàn (Kế hoạch chu mật, tính toán thâm sâu cao xa. Dùng để hình dung người làm việc tinh minh lão luyện).
Lê hoa đái vũ – 梨花带雨 – lí huā dài yǔ = Lê hoa đái lộ – 梨花带露 (như hoa lê  đọng giọt mưa/ sương, xuất phát từ Trường Hận ca của Bạch cư dị –> theo baidu, nguyên hình dung tư thái khóc lóc của Dương Quý phi, sau để chỉ vẻ đẹp kiều diễm của mỹ nhân đang khóc lóc).
Liên (lân) hương tích ngọc – 怜香惜玉 – lián xiāng xī yù (thương hoa tiếc ngọc).
Liệt hỏa kiến chân kim – 烈火见真金 – liè huǒ jiàn zhēn jīn (trong lửa mạnh thấy vàng thật = vàng thật thử lửa, trong gian nan thấy chân tình).
Liễu ám hoa minh hựu nhất thôn ( trong Sơn trùng thủy phục nghi vô lộ – Liễu ám hoa minh hựu nhất thôn, câu trong bài Du sơn tây thôn của Lục Du, – núi sông trùng điệp ngờ hết lối, trong đám liễu mờ hoa rõ lại hiện ra 1 thôn làng –> nguyên để hình dung cảnh xuân tươi đẹp của thôn ở phía trước, sau  ẩn dụ (metaphor)  chỉ hình thế/ hoàn cảnh/ sự kiện tốt  mới đột nhiên xuất hiện.).
Liệu sự như thần – 料事如神 – liào shì rú shén => ko phải là từ chú Gia cát lượng, thần tượng của mình mà ra à?–> check thấy mạng bảo xuất từ sách Đông Chu Liệt Quốc của Phùng Mộng Long đời Minh.
Long du thiển thủy tao hà hý, Hổ lạc bình dương bị khuyển khi – 龙游浅水遭虾戏,虎落平阳被犬欺 – Lóng yóu qiǎn shuǐ zāo xiā xì ,hǔ luò píng yáng bèi quǎn qī (xem giải thích ở Hổ lạc bình dương bị khuyển khi).
Long tranh hổ đấu – 龙争虎斗 – lóng zhēng hǔ dòu.
Lô hỏa thuần thanh – 炉火纯青 – lú huǒ chún qīng (lửa trong lò đã chuyển thành một màu  xanh thuần nhất; nguyên để chỉ màu lửa vào thời khắc đạo sỹ luyện đan thành công, sau dùng để hình dung kỹ nghệ, học vấn, tu dưỡng đã đạt đến cảnh giới tinh túy hoàn mỹ, hoặc làm việc đã đạt đến địa giới thuần thục [hehe đang đọc Đấu phá thương khung tóm được cụm này 08/01/2013]).
Lộ kiến bất bình, bạt đao tương trợ – 路见不平,拔刀相助 – lù jiàn bù píng,bá dāo xiāng zhù (trên đường thấy việc bất bình, rút đao tương trợ).
Lộc tử thùy thủ – 鹿死谁手 – lù sǐ shuí shǒu (hươu chết về tay ai, nguyên để chỉ ngôi vua, quyền hành, địa vị chưa biết về tay ai; nay để chỉ trong cạnh tranh nói chung, chưa biết ai là người đạt được thắng lợi cuối cùng).
Lộng giả thành chân – 弄假成真 – nòng jiǎ chéng zhēn (nguyên lai là giả, đến kết cục lại biến thành thật, hoặc là phát sinh sự việc ngoài ý muốn khiến cho giả biến thành thật).
Lưỡng bại câu thương – 两败俱伤 – liǎng bài jù shāng (tranh đấu đến thế cục cả hai bên đều tổn thương).
Lưỡng nhĩ bất văn song ngoại sự, nhất tâm chỉ độc thánh hiền thư – 两耳不闻窗外事,一心只读圣贤书 – liǎng ěr bù wén chuāng wài shì yì xīn zhǐ dú shèng xián shū (ngạn ngữ, nói chung là 2 tai ko nghe việc ở ngoài cửa sổ, chỉ chú tâm đọc sách thánh hiền–> nếu mà thật được như thế này… :-‘().
Lưỡng tình tương duyệt – 两情相悦 – liǎng qíng xiāng yuè (duyệt: yêu thích, hình dung song phương đều có tình cảm với nhau, nôm na là hai lòng cùng ưa, ví dụ như anh A chị B lưỡng tình tương duyệt, chắc chắn là nhặt từ truyện ngôn tình ra hị hị).
Lượng tiểu phi quân tử – 量小非君子 – liànɡ xiǎo fēi jūn zǐ (lượng: độ lượng, đại loại là lòng bao dung, độ lượng ít ko phải là quân tử, thấy mạng còn xếp thành liền 1 câu: Lượng tiểu phi quân tử, Vô độc bất trượng phu, hoặc là Vô độ bất trượng phu – 无度不丈夫 –> lại 2 version vì cách đọc giống nhau???, tuy nhiên thấy câu sau có vẻ có lý hơn, độ ở đây là độ lượng. Còn Vô độc bất trượng phu lại mang 1 ý nghĩa khác).
Lưu đắc thanh sơn tại, bất phạ một sài thiêu – 留得青山在,不怕没柴烧 – liú dé qīng shān zài,bù pà méi chái shāo, hoặc là, Lưu đắc thanh sơn tại, bất sầu một sài thiêu – 留得青山在,不愁没柴烧 (nói chung là núi xanh còn đó, lo gì không có củi đun… câu này trên phim ảnh hay thấy nói này).
Lý ứng ngoại hợp – 里应外合 – lǐ yìng wài hé (trong ứng ngoài hợp).
Mã đáo thành công – 马到成功 – mǎ dào chéng gōng.
Mạc trước thạch đầu quá hà – 摸着石头过河 – mō zhe shítóu guò hé (lần đá qua sông –> hì hì Đặng tiểu Bình…)
Man thiên quá hải – 瞒天过海  – mán tiān guò hǎi (giấu trời qua biển – kế thứ nhất trong 36 kế – đại loại là ngụy trang qua mặt đối phương, ngấm ngầm hành động).
Mãn diện xuân phong –  满面春风 – mǎn miàn chūn fēng (lại một thành ngữ để hình dung mặt mày hớn hở).
Mẫu đơn hoa hạ tử, tác quỷ dã phong lưu – 牡丹花下死作鬼也风流 – mǔdān huā xià sǐ, zuòguǐ yě fēngliú (chết dưới hoa mẫu đơn, làm quỷ cũng phong lưu. Câu xuất phát từ Mẫu đơn Đình, mạng bảo thế, mẫu đơn là chỉ người đẹp, đại loại là câu nam giới dùng để biểu tỏ tình cảm tình yêu tình ngưỡng mộ vân vân và mây mây đối với người đẹp, vì người đẹp có thể làm bất cứ chuyện gì, chết cũng vui lòng).
Mi hoa nhãn tiếu – 眉花眼笑 – méi huā yǎn xiào = Mi khai nhãn tiếu – 眉开眼笑 (chữ trong Tây du ký – mày như hoa, mắt như cười –> mặt mày hớn hở).
Mi lai nhãn khứ – 眉来眼去 – méi lái yǎn qù (đại loại là đầu mày cuối mắt, dùng mày mắt đưa tình, thường để chỉ tình huống ko chính đáng).
Miên lý tàng châm – 绵里藏针 – mián lǐ cáng zhēn (trong b��ng giấu kim – chỉ trong mềm có cứng, hoặc ngoài mặt thiện lương, trong lòng ác độc).
Minh thương hảo đóa, ám tiễn nan phòng – 明枪好躲,暗箭难防 – mínɡ qiāng hǎo duǒ , àn jiàn nán fáng ( thương đâm trực tiếp dễ tránh, tên bắn lén khó phòng).
Minh tranh ám đấu – 明争暗斗 – míng zhēng àn dòu (ngoài sáng trong tối đều tranh đấu với nhau, thường dùng tả nội bộ tranh quyền đoạt lợi).
Mục trung vô nhân – 目中无人 – mù zhōng wú rén (trong mắt ko có ai).
Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên – 谋事在人,成事在天 – móu shì zài rén,chéng shì zài tiān (mưu việc do người, thành việc do trời).
Mưu thần như vũ – 谋臣如雨 – móu chén rú yǔ (mưu sỹ nhiều như mưa).
Mỹ trung bất túc – 美中不足 – měi zhōng bù zú (tốt đẹp nhưng chưa hoàn thiện, vẫn có chỗ cần cải thiện) >< Thập toàn thập mỹ.
Nam chinh bắc chiến –  南征北战 – nán zhēng běi zhàn.
Nam hoan nữ ái – 男欢女爱 – nán huān nǚ ài (dùng để chỉ tình yêu nam nữ).
Nam Kha nhất mộng – 南柯一梦 – nán kē yī mèng (giấc mộng Nam Kha).
Ngã bất nhập địa ngục, thùy nhập địa ngục – 我不入地狱,谁入地狱 – wǒ bù rù dìyù, shéi rù dìyù (ta không vào địa ngục thì ai vào địa ngục – xuất xứ,  nhiều thuyết khác nhau. Có thuyết cho là lời phát nguyện của Địa Tạng Vương bồ tát, đại loại là “địa ngục bất không, thệ bất thành phật, chúng sinh độ tận, phương chứng bồ đề”. Có thuyết cho rằng lời này căn bản ko liên quan gì đến Phật Giáo, vì ko thấy ghi trong kinh nào).
Nghi tâm sinh ám quỷ – 疑心生暗鬼 – yí xīn shēng àn guǐ (đa nghi nến mới ảo giác, phán đoán vớ vẩn) = Nghi thần nghi quỷ – 疑神疑鬼 – yí shén yí guǐ
Nghĩa bạc vân thiên – 义薄云天 – yì bó yún tiān (bạc: động từ, có nghĩa là gần sát đến, tóm lại là nghĩa cao đến trời cao). => “Bạc” cũng nghĩa là cập bến, trong mấy cụm dạ bạc này nọ chăng? (lười check) -> không.
Nghĩa vô phản cố – 义无反顾 – yì wú fǎn gù (đại loại là vì chính nghĩa, đạo nghĩa,  ko do dự,  ko  quay đầu nhìn lại, tiếng Anh:  not to flinch or shrink back for a righteous cause; March bravely ahead without any thought of turningback :D).
Nghịch thủy hành chu, bất tiến tắc thoái – 逆水行舟 ,不进则退 – nì shuǐ xíng zhōu,bù jìn zé tuì (đi thuyền trên dòng nước ngược, ko tiến lên là (bị) lùi ngay. Thấy trên mạng có đưa ví dụ là việc học hành như đi thuyền trên dòng nước ngược, ko tiến lên tức là lùi, đại loại như thế cho dễ hiểu).
Ngoại quân tử nhi nội tiểu nhân – 外君子而内小人 (ngoài mặt quân tử, trong lòng tiểu nhân, cũng từ Tam quốc diễn nghĩa).
Ngọc thụ lâm phong – 玉树临风 – yù shù lín fēng (cây ngọc đón gió, hình dung người phong độ tiêu sái, dung mạo tú mĩ. Xuất xứ: Đỗ Phủ – Ẩm trung bát tiên ca).
Ngôn hữu tận nhi ý vô cùng –  言有尽而意无穷 – yán yǒu jìn ér yì wú qióng (lời có hạn nhưng ý vô cùng -> thơ văn ý tứ thâm sâu).
Ngôn xuất tất hành – 言出必行 – yán chū bì xíng (đã nói là làm).
Ngũ thể đầu địa – 五体投地 – wǔ tǐ tóu dì (ngũ thể: hay tay, hai đầu gối và đầu, đều chạm xuống đất. Là một loại nghi thức hành lễ cung kính nhất của phật giáo. Dùng để chỉ bái phục ai đó đến cực điểm. Ai tò mò thì google image cụm này để xem nó như thế nào. Trang này viết là xuất tự Đường Huyền Trang, Đại Đường tây vực ký).
Nguyệt nhi loan loan chiểu cửu châu- Kỷ gia hoan lạc kỷ gia sầu- Kỷ gia phu thê đồng la trướng- Kỷ gia phiêu lưu tại ngoại đầu – 月儿弯弯照九州,几家欢乐几家愁。几家夫妇同罗帐,几家飘散在他州。(dân ca lưu hành ở Giang Nam thời Nam Tống; trang này của viện Hán Nôm có dịch thơ như sau: Ấy vành trăng khuyết chiếu chín châu- Bao nhà vui vẻ bấy nhà sầu- Bao cặp vợ chồng trong màn lụa- Bấy kẻ lênh đênh tận đâu đâu. Nói chung là hai câu đầu hay được ngâm lên để cảm thán sự đời sự người này nọ- yuè ér wān wān zhào jiǔ zhōu , jǐ jiā huān lè jǐ jiā chóu).
Nhân bất tri, quỷ bất giác – 人不知,鬼不觉 – rén bù zhī,guǐ bù jué (người không biết, quỷ ko hay) tương đương Thần bất tri, quỷ bất giác – 神不知,鬼不觉 – shén bù zhī guǐ bù jué.
Nhân bất vị kỷ, thiên tru địa diệt – 人不为己,天诛地灭 – rén bù wèi jǐ,tiān zhū dì miè (người ko vì mình, trời tru đất diệt) –> câu yêu thích nhất của mình đây love love love?
Nhân giả kiến nhân, trí giả kiến trí – 仁者见仁,智者见智 – rén zhě jiàn rén,zhì zhě jiàn zhì (người nhân thì nhìn ra việc nhân, người trí thì nhìn ra việc trí, như kiểu cùng một việc nhưng mỗi người có 1 perspective, câu này rất chi là constructivist nha. Xuất xứ Chu dịch, thảo nào). => Câu này hay á!
Nhân kiến lợi nhi bất kiến hại, ngư kiến thực nhi bất kiến câu – 人见利而不见害,鱼见食而不见钩 (người thấy lợi mà ko thấy hại, cá thấy mồi mà ko thấy câu).
Nhân kiệt địa linh – 人杰地灵 – rén jié dì líng.
Nhân lão tâm bất lão – 人老心不老 – rén lǎo xīn bù lǎo (người già tâm ko già, hình như lại liên quan đến Tam Quốc, nhân vật Hoàng Trung 1 trong ngũ đại hổ tướng).
Nhân phi thảo mộc, thục năng vô tình – 人非草木孰能无情 – rén fēi cǎo mù shú néng wúqíng (con người không phải là cỏ cây, ai có thể vô tình? Nhân phi thảo mộc được dùng thành 1 thành ngữ, nói ra là bao gồm cả ý sau luôn).
Nhân sinh đắc ý tu tận hoan, Mạc sử kim tôn không đối nguyệt – 人生得意须尽欢, 莫使金樽空对月 (Tương tiến tửu – Lý Bạch: Đời người đắc ý hãy vui tràn, Chớ để chén vàng suông bóng nguyệt – theo bản dịch của Hoàng Tạo, Tương Như). => Câu này cũng hay nè, rất thường dc dẫn.
Nhân sinh như triêu lộ – 人生如朝露 – én shēng rú zhāo lù (đời người như hạt sương buổi sớm –> đời người ngắn ngủi).
Nhân sinh thất thập cổ lai hy – 人生七十古来稀 – rén shēng qī shí gǔ lái xī (người sống đến 70 xưa nay hiếm).
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh – 人生自古谁无死,留取丹心照汗青 (xuất xứ từ thơ của Văn thiên Tường – nhà thơ, tể tướng thời Tống: đời người tự cổ ai không chết, riêng tấm lòng son chiếu sử xanh – Bên đàn tranh thấy có 1 bài nhạc cải lương có tên là Văn Thiên Tường – chắc cũng liên quan đến cuộc đời số phận, khí tiết ái quốc của đồng chí Văn Thiên Tường, mà đã trở thành biểu tượng/hình ảnh trung trinh này kia thôi – haizz cải lương quan hệ thân mật với văn hóa văn nghệ tq thật. Nghe rất não nề ở đây http://mp3.zing.vn/bai-hat/Van-Thien-Tuong-Hai-Phuong/IWZAIDAZ.html còn hát cải lương đây – http://mp3.zing.vn/bai-hat/Van-Thien-Tuong-Ns-Vu-Luan-Ns-Thoai-My/IW96EUDD.html ).
Nhân sơn nhân hải – 人山人海 – rén shān rén hǎi (hình dung người đông như núi như biển, nếu google image cái cụm này tiếng Trung sẽ ra hình rất hay đấy).
Nhân tình lãnh noãn –   人情冷暖 – rén qíng lěng nuǎn (tình người nóng lạnh).
Nhân vi tài tử, điểu vi thực vong – 人为财死,鸟为食亡 – rén wèi cái sǐ,niǎo wèi shí wáng (người chết vì tiền tài, chim chết vì thức ăn).
Nhân vô viễn lự, tất hữu cận ưu – 人无远虑,必有近忧 – rén wú yuǎn lǜ,bì yǒu jìn yōu (chữ trong Luận ngữ, người ko có nỗi lo xa, ắt có mối ưu tư gần, hic, rất trừu tượng (như mọi câu khác trong Nho học), thấy viết trên mạng gì mà, hiện tại có mối ưu tư, là do trước đây ko tính toán xa, bây giờ mà ko lo xa, thì về sau phiền phức sẽ xuất hiện…).
Nhẫn vô khả nhẫn – 忍无可忍 – rěn wú kě rěn (không thể nhẫn nại được nữa).
Nhất ba vị bình, nhất ba hựu khởi – 一波未平,一波又起 – yī bō wèi píng,yī bō yòu qǐ (sóng này chưa tan sóng khác đã đến –> sự việc này chưa xong sự việc khác đã phát sinh).
Nhất dạ phu thê bách dạ ân – Nhất nhật phu thê bách nhật ân – 一夜夫妻百夜恩 – yī yè fū qī bǎi yè ēn (một ngày làm vợ chồng cũng là tình nghĩa mãi mãi). => Lại thường nghe câu, 1 ngày là thầy, suốt đời là cha (hì, trong Tây du ký hay dẫn), ko biết nguyên văn ra sao? –> Nhất nhật vi sư, chung thân vi phụ – 一日为师,终身为父
Nhất hoa nhất thế giới, nhất diệp nhất như lai – 一花一世界,一叶一如来 (ngoài ra còn 1 đống các loại: Nhất hoa nhất thế giới, nhất diệp nhất bồ đề; Nhất hoa nhất thế giới, nhất phật nhất như lai, vân vân và vân vân, có thể tham khảo tại đây, và đây. Ai ngộ tính cao thì tự hiểu. Đại ngộ vô ngôn nên không thể giải thích ở đây :-P). => Giàng ơi, ngộ không ngộ?
Nhất khứ bất phục phản (một đi không trở lại, hì, Hoàng Hạc lâu :-)).
Nhất minh kinh nhân – 一鸣惊人 – yī míng jīng rén (một tiếng kêu làm kinh động mọi người, tóm lại là 1 khi người tài đã ra tay thì gạo xay ra cám, khiến thiên hạ lác mắt. Xuất xứ truyện Tề Uy Vương thời chiến quốc ).
Nhất nặc thiên kim – 一诺千金 – yī nuò qiān jīn (một lời hứa đáng ngàn vàng).
Nhất ngôn vi trọng – 一言为重 – yī yán wéi zhòng = Nhất ngôn cửu đỉnh.
Nhất niệm thành ma, nhất niệm thành phật – 一念成魔一念成佛 (ko rõ có phải thành ngữ gì ko, nhưng hay… là thiện hay là ác chỉ trong một ý niệm mà thôi).
Nhất sơn hoàn hữu nhất sơn cao – 一山还有一山高 (núi cao lại có núi cao hơn). => Lại có câu gì mà, đạo cao 1 thước, ma cao 1 trượng cái j đó, hình như ý cũng là, vỏ quýt dày, còn có móng tay nhọn, trong film về hậu cung hay thấy dùng?
Nhất thanh nhị sở – 一清二楚 – yī qīng èr chǔ (hoàn toàn rõ ràng, rõ như ban ngày).
Nhất thất túc thành thiên cổ hận – 一失足成千古恨 – yī shī zú chéng qiān gǔ hèn (ai da, xuất xứ từ thời Minh, ghi trong sách này sách kia (ngại chép lại vào đây), tóm lại là 1 câu: 一失足成千古笑,再回头是百年人 Nhất thất túc thành thiên cổ tiếu, Tái hồi đầu thị bách niên nhân –> sau đó, theo baidu, đến thời Thanh trong 1 cuốn tiểu thuyết ghi là 一失足成千古恨,再回头已百年身 – Nhất thất túc thành thiên cổ hận, Tái hồi đầu thị bách niên thân [bước lỡ một bước thành mối hận thiên cổ]–> theo thiển ý cá nhân thì câu sau này hay hơn.)
Nhất tiễn song điêu – 一箭双雕 – yī jiàn shuāng diāo (một mũi tên bắn hai con chim [diều hâu] – khỏi cẩn giải thích nghĩ ẩn dụ nhỉ? chú thích là chữ điêu này động từ là trong điêu khắc trạm chổ đấy ạ, xem câu Hủ mục bất khả điêu dã).
Nhất triêu bị xà giảo, thập niên phạ tỉnh thằng – 一朝被蛇咬,十年怕井绳 – yī zhāo bèi shé yǎo,shí nián pà jǐng shéng (Nhất triêu cũng còn được thay bằng Nhất niên 一年: một lần bị rắn cắn, 10 năm sợ dây thừng).
Nhật cửu kiến nhân tâm – 日久见人心 trong Lộ diêu tri mã lực, Nhật cửu kiến nhân tâm – 路遥知马力, 日久见人心 – lù yáo zhī mǎ lì,rì jiǔ jiàn rén xīn (đường dài mới biết sức ngựa, thời gian dài mới thấy lòng người).
Nhi nữ tình trường – – 儿女情长 ér nǚ qíng cháng (hơ hơ theo giải thích trên mạng, nhi nữ tức là nam nữ, tóm lại là  tình cảm yêu đương giữa nam nữ triền miên không rời–> dụng ý chỉ việc quá coi trọng tình cảm, nếu ghép vào với vế Anh hùng khí đoản ở trên như người ta hay làm, thành ra là vì qu�� coi trọng tình yêu mà tiêu tán ý chí phấn đấu này kia… ). Em tưởng chữ “nhi” này là con cái? –> nope!
Nhị hổ tương đấu, tất hữu nhất thương – 二虎相斗,必有一伤 – èr hǔ xiāng dòu, bì yǒu yī shāng (hai hổ đánh nhau, tất 1 bị thương).
Như ảnh tùy hình – 如影随形 – rú yǐng suí xíng (như bóng với hình).
Như ngư đắc thủy – 如鱼得水 – rú yú dé shuǐ (như cá gặp nước, xuất từ Tam Quốc chí, Gia Cát Lượng truyện. Trong Tam Quốc diễn nghĩa cũng thấy đoạn Lưu bị nói ta gặp được Khổng Minh như cá gặp nước).
Như nhật trung thiên – 如日中天 – rú rì zhōng tiān (như mặt trời giữa ban ngày–> đỉnh cao chói lọi đây).
Nhược yếu nhân bất tri, trừ phi kỷ mạc vi – 若要人不知,除非己莫为 – ruò yào rén bù zhī,chú fēi jǐ mò wéi (nếu muốn người khác không biết, trừ phi là đừng làm).
Ninh vi ngọc toái, bất vi ngõa toàn – 宁为玉碎|不为瓦全 – nìng wéi yù suì,bù wéi wǎ quán (thà làm ngọc vỡ còn hơn ngói lành –> Thà 1 phút huy hoàng rồi chợt tắt??? :D).
Nộ khí xung thiên –  怒气冲天 – nù qì chōng tiān (hình dung vô cùng tức giận, phẫn nộ).
Nữ nhi tình trường – => nghĩa là sao đây? Nữ nhi = phụ nữ => phụ nữ thì hay lèo nhèo, níu kéo? Hay là Nữ nhi = Nữ + Nhi, nghĩa là con gái và con trai, => các sợi dây níu kéo từ gia đình, vd như nói câu “đã đi vào giang hồ thì ko nên nữ nhi tình trường”, ý là khuyến cáo đã bước vào giang hồ thì ko nên lập gia đình, có vợ con, bởi vì sẽ làm ăn ko có dc dứt khoát, ra tay ko có dc gãy gọn, hay bị ràng buộc lằng nhằng => nguy hiểm tới bản thân và nx người liên quan??? –> hic, check lại rồi, là Nhi nữ tình trường chính xác hơn, nên mời lên trên xem?
Oan các hữu đầu, trái các hữu chủ – 冤各有头,债各有主 – yuān gè yǒu tóu,zhai gè yǒu zhǔ ( hoặc là 冤有头,债有主 oan có đầu, nợ có chủ).
Ốc lậu thiên phùng liên dạ vũ – 屋漏偏逢连夜雨 (thiên: vừa, đúng lúc; nhà đã dột lại gặp đúng lúc trời mưa suốt đêm; trong một câu là 屋漏偏逢连夜雨 ,船迟又遇打头风 – Ốc lậu thiên phùng liên dạ vũ, Thuyền trì hựu ngộ đả đầu phong của Phùng Mộng Long. Vế sau có nghĩa là thuyền đã trễ lại còn gặp gió tạt đầu; tóm lại là họa vô đơn chí; by the way là thấy các bạn Tàu có vẻ hay nói là Phúc vô song chí, họa bất đơn hành). => Còn có họa vô đơn chí, phúc bất trùng lai
Phá kính trùng viên – 破镜重圆 – pò jìng chóng yuán (gương vỡ lại lành).
Phản bại vi thắng –  反败为胜 – fǎn bài wéi shènɡ (chuyển bại thành thắng).
Phản lão hoàn đồng – 返老还童 – fǎn lǎo huán tóng.
Phật khẩu xà tâm – 佛口蛇心 – fó kǒu shé xīn (hình như vn mình hay ghi là khẩu phật tâm xà – gần nghĩa với Khẩu mật phúc kiếm, Khẩu thị tâm phi, Tiếu lý tàng đao).
Phẫu phúc tàng châu – 剖腹藏珠 – pōu fù cáng zhū (mổ bụng giấu ngọc [theo 1 câu chuyện là vì muốn giấu viên ngọc quý, sợ có người ăn cắp, nên cuối cùng nghĩ ra kế là mổ bụng để giấu vào trong, nhưng mấy ngày sau thì chết vì vết mổ], đại loại là vì vật mà hại đến thân, ko biết gì là khinh trọng…).
Phi đồng tiểu khả – 非同小可 – fēi tóng xiǎo kě (chỉ tình huống nghiêm trọng, sự tình trọng yếu, ko thể xem nhẹ, hoặc là chỉ người có học vấn, bản lĩnh… ko tầm thường. Đọc trong Tầm tần ký, dùng là Điền Đan có thân phận phi đồng tiểu khả, tức là thân phận ko tầm thường, by the way thành ngữ này thấy rất hay được sử dụng, chắc do toàn đọc truyện anh hùng với mĩ nhân nên hay gặp).
Phi nga phác hỏa – 飞蛾扑火 – fēi é pū huǒ (thiêu thân xông vào lửa).
Phiên thủ vi vân, phúc thủ vi vũ – 翻手为云,覆手为雨 – fān shǒu wéi yún,fù shǒu wéi yǔ (lật tay làm mây lật lại tay làm mưa, chỉ người quyền thế hô mưa gọi gió).
Phong bình lãng tĩnh – 风平浪静 – fēng píng làng jìng (gió yên sóng lặng).
Phong độ phiên phiên – 风度翩翩 – fēng dù piān piān (phong thái phong lưu tiêu sái).
Phóng hạ đồ đao, lập địa thành Phật – 放下屠刀,立地成佛 – fàng xià tú dāo,lì dì chéng fó (bỏ đao giết người, có thể trở thành phật).
Phú khả địch quốc – 富可敌国 – fù kě dí guó (khỏi phải giải thích nhỉ???).
Quải dương đầu mại cẩu nhục – 挂羊头卖狗肉 – guà yáng tóu,mài gǒu ròu (treo đầu dê bán thịt chó).
Quan quan tương hộ – 官官相护 – guān guān xiāng hù (quan lại che đậy bênh vực cho nhau).
Quân tử chi giao đạm như thủy – 君子之交淡如水 – jūn zǐ zhī jiāo dàn rú shuǐ (câu này nổi tiếng này, xuất từ Trang tử hẳn hoi, thấy giải nghĩa là giao tình của người quân tử cao nhã, thuần tịnh, thanh đạm như nước, ai chà, trong 1 câu rất dài như sau: 且君子之交淡若水,小人之交甘若醴;君子淡以亲,小人甘以绝 – thả quân tử chi giao đạm nhược thủy, tiểu nhân chi giao cam nhược lễ; quân tử đạm dĩ thân, tiểu nhân cam dĩ tuyệt; thấy từ điển ghi “lễ” có nghĩa là rượu ngon ngọt; đại ý cả câu như sau: giao tình của người quân tử thanh đạm như nước, giao tình của kẻ tiểu nhân ngon ngọt như rượu, quân tử đạm mà thân, tiểu nhân ngọt mà tuyệt [giao] – hì hì câu này lại để cho ai ngộ tính cao. Đại ngộ vô ngôn nên lại ko thể giải thích?. By the way, chữ đạm rất hay, nên giữ nguyên, chứ dịch xuôi tiếng Việt ra là giao tình của người quân tử nhạt như nước lã, nghe thật là…). => Hơ, thế mình phải làm sống lại cái aka Đạm Thủy của mình mới dc?
Quốc chính thiên tâm thuận, Quan thanh dân tự an – 国正天心顺,官清民自安 – guó zhèng tiān xīn shùn guān qīng mín zì ān.
Quốc sắc thiên hương – 国色天香 – guó sè tiān xiāng.
Quý nhân đa vong sự – 贵人多忘事 – guì rén duō wàng shì (quý nhân hay quên chuyện xưa–> dùng chỉ người quan cao chức trọng thái độ ngạo mạn, ko niệm cựu tình, cũng để đùa người hay quên chuyện).
Sáng nghiệp dung dị thủ nghiệp nan – 创业容易守业难 (ngạn ngữ, xây dựng nên sự nghiệp dễ, giữ được mới khó).
Sát khí đằng đằng – 杀气腾腾 0 shā qì téng téng.
Sát ngôn quan sắc – 察言观色 – chá yán guān sè (quan sát lời nói và sắc mặt biểu hiện  của người khác. Tóm lại là suy đoán thăm dò ý nghĩ, tâm sự của người khác. Xuất từ Luận Ngữ, Nhan Uyên).
Sát nhân bất kiến huyết – 杀人不见血 – shā rén bù jiàn xuè (giết người ko thấy máu, ko phải để chỉ võ công cao cỡ Lý Tầm Hoan hay Tây Môn Xuy Tuyết đâu? mà để chỉ thủ đoạn nham hiểm tàn độc giết người ko để lại dấu tích).
Sầu mi khổ kiểm – 愁眉苦脸 – chóu méi kǔ liǎn (mặt mày sầu khổ).
Sĩ khả sát bất khả nhục – 士可杀不可辱  shì kě shā bù kě rǔ (kẻ sĩ có thể giết, ko thể làm nhục).
Sĩ vi tri kỷ giả tử – 士为知己者死 – shì wèi zhī jǐ zhě sǐ (kẻ sĩ vì người tri kỷ mà chết, xuất từ Chiến Quốc sách).
Sinh ly tử biệt –  生离死别 – shēng lí sǐ bié.
Sinh tử chi giao – 生死之交 – shēng sǐ zhī jiāo.
Sinh tử hữu mệnh, phú quý tại thiên –  生死有命,富贵在天 – shēng sǐ yǒu mìng,fù guì zài tiān (sống chết có số, phú quý tại trời).
Sinh tử quan đầu – 生死关头 – shēng-sǐ guān tóu (chỉ thời khắc khẩn cấp quan trọng).
Sinh tử tồn vong – 生死存亡 – shēng sǐ cún wáng.
Sơn vũ dục lai phong mãn lâu – 山雨欲来风满楼 – shān yǔ yù lái fēng mǎn lóu trong Khê vân sơ khởi nhật trầm các, Sơn vũ dục lai phong mãn lâu – 溪云初起日沉阁,山雨欲来风满楼 (trong Hàm Dương thành đông lâu của Hứa Hồn đời Đường: mưa núi sắp đến gió khắp lầu –>tóm lại dùng để hình dung các hiện tượng xảy ra báo hiệu những biến hóa thay đổi lớn trong tình hình, cục diện, cục thế. Hiện tại chủ yếu sử dụng để hình dung các căng thẳng leo thang có thể dẫn đến chiến tranh xung đột –> câu thơ lãng mạn thế này mà….). => Công nhận
Sự bất quan kỷ – 事不关己 – shì bù guān jǐ (tóm lại là sự việc với ta chẳng có quan hệ gì –> câu này dành riêng cho bạn Dật Ly, người luôn tự nhận là mình bàng quan, ko quan tâm đến xã hội, tâm bất tại yên :D).
Sự cấp vô quân tử – 事急无君子 – shì jí wú jūn zǐ (tóm lại là lúc khẩn cấp thì ko còn thời gian làm quân tử, chú ý đến quy tắc, lễ mạo).
Tá đao sát nhân – 借刀杀人 – jiè dāo shā rén (mượn dao giết người, lợi dụng người để hại người khác, kế thứ 3 trong 36 kế).
Tá đề phát huy – 借题发挥 – jiè tí fā huī (mượn câu chuyện hiện tại để dẫn dắt sang 1 ý khác, đưa ý kiến của mình vào).
Tá hoa hiến phật – 借花献佛 – jiè huā xiàn fó (mượn hoa dâng phật, mượn hoa của người khác để dâng cho phật, đại loại là của người phúc ta???).
Tác uy tác phúc – 作威作福  – zuò wēi zuò fú (làm uy làm phúc – nguyên để chỉ chỉ có vua mới có độc quyền nắm uy quyền, thi hành thưởng phạt – nay để hình dung những người có quyền thế tự cao tự đại, lạm dụng quyền thế, hoành hành bá đạo –> tác oai tác quái? ).
Tài cao bát đẩu – 才高八斗 – cái gāo bā dǒu (tài cao bằng 8 đẩu –>cực kỳ tài hoa. xuất phát từ 1 sách nào đó Nam triều thời Tống, Tạ Linh Vận nói: trong thiên hạ tài  học tổng cộng 1 thạch (= 10 đẩu), Tào tử Kiến độc chiếm 8 đẩu, ta được 1 đẩu, thiên hạ còn lại chia nhau 1 đẩu)–> Tạ Linh Vận nghe quen quá đi mất,nhất thời ko nhớ ra là ai, nhưng kiêu ghê.
Tam sinh hữu hạnh – 三生有幸 – sān shēng yǒu xìng (tam sinh là thuật ngữ nhà Phật, chỉ quá khứ, hiện tại, tương lai; tam sinh có hạnh vận, hình dung duyên ngộ cực kỳ hiếm, hay được dùng như câu nói khiêm tốn khi kết giao bạn bè mới, gặp ai đó. Hehe con chim kia đúng là tam sinh hữu hạnh mới gặp được ta đấy nhé? ).
Tam tâm lưỡng ý – 三心两意 – sān xīn liǎng yì (đại loại là ba lòng hai dạ) = tam tâm nhị ý
Tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách – 三十六策,走为上策 – sān shí liù cè,zǒu wéi shàng cè (ba mươi sáu kế, chạy là thượng sách).
Tam thiên đả ngư, lưỡng thiên sái võng – 三天打鱼,两天晒网 – sān tiān dǎ yú,liǎng tiān shài wǎng (ba ngày đánh cá hai ngày phơi lưới -> tóm lại là làm việc lười biếng ko kiên trì). => Ui gia, câu favorite của bạn DL?
Tam trường lưỡng đoản – 三长两短 – sān cháng liǎng duǎn (ba dài hai ngắn (hình dung mấy tấm ván quan tài đây mà) –> chỉ tử vong).
Tàn hoa bại liễu – 残花败柳 – cán huā bài liǔ (chỉ phụ nữ phóng đãng hoặc đã bị giày xéo, hoặc vứt bỏ…).
Tâm bất tại yên – 心不在焉 – xīn bù zài yān (yên: ở đây, ở chỗ này –> tâm hồn không ở đây, ở những đâu đâu, không tập trung tư tưởng. chữ trong Đại học, 1 câu rất dài: tâm bất tại yên, thị nhi bất kiến, thính nhi bất văn, thực nhi bất tri kỳ vị – 心不在焉, 视而不见,听而不闻,食而不知其味 –> nói chung là ko tập trung tư tưởng nên nhìn mà ko thấy gì, nghe mà cũng như ko nghe thấy gì, ăn mà ko biết mùi vị ra sao).
Tâm cam tình nguyện – 心甘情愿 – xīn gān qíng yuàn (hình như ở Vn mình hay đọc là cam tâm tình nguyện???).
Tâm hoa nộ phóng – 心花怒放 – xīn huā nù fàng (hình dung nội tâm cực kỳ cao hứng – lòng như hoa nở rộ – như mở cờ trong bụng).
Tâm hoài phả trắc – 心怀叵测 – xīn huái pǒ cè (chữ trong Tam quốc diễn nghĩa, Tào tháo tâm hoài phả trắc; phả trắc: ko lường được).
Tâm hữu dư nhi lực bất túc – 心有馀而力不足 – xīn yǒu yú ér lì bù zú (tâm có thừa nhưng lực ko đủ)
Tâm thần bất định – 心神不定 – xīn shén bù dìng
Tâm trung hữu quỷ – 心中有鬼 – xīnzhōng yǒu guǐ
Tâm trung hữu số – 心中有数 – xīn zhōng yǒu shù (xuất xứ từ sách của Trang tử, nhưng mà hôm nay, ngày 29/10/2012, lười, ko chép lại, tóm lại ý nghĩa là đối với tình huống hay vấn đềcăn bản đã hiểu rồi, đã có cách xử lý rồi – trong lòng đã có tính toán).
Tầm hoa vấn liễu – 寻花问 柳 – xún huā wèn liǔ (hỏi liễu tìm hoa. Chỉ du ngoạn lạc thưởng ngày xuân. Cũng chỉ đến kỹ viện – hoa, liễu: kỹ nữ).
Tận tâm kiệt lực – 尽心竭力 – jìn xīn jié lì.
Tật phong tảo thu diệp – 疾风扫秋叶 – jí fēng sǎo qiū yè (gió mạnh quét sạch lá thu –> để hình dung những gì mạnh, tốc độ) = Thu phong tảo lạc diệp (nhớ đến câu trong Bình Ngô đại cáo: Cơn gió to trút sạch lá khô – Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ :-P).
Tẩu mã khán hoa – 走马看花 – zǒu mǎ kàn huā (cưỡi ngựa xem hoa).
Tha nê đái thủy – 拖泥带水- tuō ní dài shuǐ (kéo theo bùn, dẫn theo nước, dùng để chỉ lời nói, hoặc văn chương rắc rối khó hiểu, ko đơn giản tinh khiết, hoặc làm việc ko gọn gàng dứt khoát, tóm đi tóm lại mình hay gọi là rối rắm, dây dưa).
Thái công điếu ngư, nguyện giả thướng câu – 太公钓鱼,愿者上钩 – tài gōng diào yú,yuàn zhě shàng gōu (Thái Công: Lã Vọng, Khương Tử Nha – Thái công câu cả, tình nguyện mắc câu –> tâm cam tình nguyện mắc bẫy).
Thái vân dị tán – 彩云易散 – cǎi yún yì sàn (đám mây ngũ sắc mỹ lệ dễ tiêu tán, hình dung cảnh đẹp không dài, nhân duyên tốt dễ bị hủy hoại tiêu tan; chữ trong Giản giản ngâm của Bạch Cư Dị, thấy Hồng Lâu Mộng dùng cụm này (trong 1 bài dài) để phán đoán số phận của Tình Văn).
Thanh giả tự thanh – 清者自清 – qīnɡ zhě zì qīng (đại loại là người thanh bạch thanh cao ko cần nói ra thì cũng vẫn là người thanh cao).
Thanh phong minh nguyệt – 清风明月 – qīng fēng míng yuè (gió mát trăng trong. theo giải thích trên mạng thì là ai chà, vô cùng nhiều nghĩa: làm bạn với gió mát trăng trong; ko kết bạn tùy tiện; cũng để hình dung thanh nhàn vô sự; để hình dùng cảnh đẹp tự nhiên an tĩnh; cũng để chỉ người thanh nhã).
Thanh thủy xuất phù dung – trong Thanh thủy xuất phù dung, Thiên nhiên khứ điêu sức – 清水出芙蓉,天然去雕饰 – qīng shuǐ chū fú róng (xuất từ Lý Bạch: 经离乱后天恩流夜郎亿旧游书怀赠江夏韦太守良宰 Kinh ly loạn hậu thiên ân lưu Dạ Lang ức cựu du thư hoài tặng giang hạ vi thái thủ lang tể – khiếp tên gì dài dã man [bài thơ còn dài hơn]–> đại loại là hoa sen vừa nở ra trên mặt nước, thiên nhiên khác xa với điêu khắc gọt giũa??? hic, giải thích phức tạp vô cùng,  baike thì giải thích là vẻ đẹp tự nhiên như hoa sen vừa nở trên mặt nước, ko qua điêu khắc gọt giũa trang sức, chỉ chủ trương văn chương thơ ca thì phải đẹp  tự nhiên thanh tân như vậy, dân tình cũng giải thích là truy cầu vẻ đẹp tự nhiên nói chung; thấy sách thích thoảng cũng ca ngợi vẻ đẹp của em này em kia là thanh thủy xuất phù dung, tức là đẹp tự nhiên thanh khiết, mà ko nhờ đến trang điểm trang sức này nọ…. ko biết còn ý gì nữa ko).
Thanh xuất vu lam, nhi thắng vu lam – 青出于蓝,而胜于蓝 – qīng chū yú lán ér shèng yú lán (hoặc là Thanh xuất ư lam, nhi thắng ư lam – hic, theo giải thích của baike, thanh là màu điện thanh 靛青, mà tra chữ điện là màu xanh lơ (xanh chàm có vẻ đúng hơn)???, còn lam là lục lam  蓼蓝,là một loại cỏ để chế tạo màu sắc, từ điển giải thích là cây chàm –> tóm lại là cái màu xanh kia là được chế luyện ra từ cỏ lam (chàm) nhưng màu sắc đậm hơn cả cỏ lam –> học sinh giỏi hơn cả thầy giáo, đồng nghĩa với hâụ sinh khả úy, hậu lãng thôi tiền lãng). => Ngoài lề, màu “thanh” là các màu xanh trộn giữa xanh blue và green, nói chung là nó có nhiều cấp độ, là màu e thấy rất đẹp
Thành tâm thành ý – 诚心诚意 – chéng xīn chéng yì.
Tham sinh úy tử – 贪生畏死 – tān shēng wèi sǐ = Tham sinh phạ tử – 贪生怕死 (tham sống sợ chết).
Thăng quan phát tài – 升官发财 – shēng guān fā cái.
Thắng bại binh gia thường sự – 胜败兵家常事 – shèng bài bīng jia cháng shì (thắng bại là chuyện thường của nhà binh).
Thâm bất khả trắc – 深不可测 – shēn bù kě cè (thâm sâu khó lường).
Thâm tàng bất lộ – 深藏不露 – shēn cáng bú lù (đại loại là chỉ người có tri thức tài năng nhưng giấu vào trong, ko khoe khoang tài năng trước mặt người khác).
Thân bất do kỷ – 身不由己- shēn bù yóu jǐ (thân không do tự mình làm chủ, tóm lại là ko có tự do được làm theo ý muốn của mình, chữ trong Tam Quốc diễn nghĩa).
Thần cơ diệu toán – 神机妙算 – shén jī miào suàn.
Thập diện mai phục – 十面埋伏 – shí miàn mái fú.
Thập niên thụ mộc, bách niên thụ nhân – 十年树木 百年树人 – shí nián shù mù,bǎi nián shù rén (mười năm trồng cây, trăm năm trồng người, xuất từ Quản Tử, Quyền tu).
Thập niên tu đắc đồng thuyền độ, Bách niên tu đắc cộng chẩm miên – 十年修得同船渡,百年修得共枕眠 – shí nián xiū dé tóng chuán dù, bǎi nián xiū dé gòng zhěn mián (tu mười năm mới (có duyên) được đi cùng thuyền, trăm năm mới chung gối ngủ). –> Hay nghe câu này phết, nhưng tự hỏi, có phải 2 người cùng tu thì mới đạt dc kết quả này, hay là chỉ cần 1 người tu + phát biểu nguyện vọng nhỉ? Mà cái này hình như là kiểu nhân duyên kiếp trước kiếp sau phải ko?
Thất khiếu sinh yên – 七窍生烟  – qī qiào shēng yān (thất khiếu: miệng, hai tai, hai mắt, hai lỗi mũi, thất khiếu đều bốc khói –> chỉ tức giận phẫn nộ lên đến cực điểm, chữ trong Tây du ký).
Thất phu chi dũng – 匹夫之勇 – pǐ fū zhī yǒng (cái dũng của kẻ thất phu).
Thất tình lục dục –  七情六欲 – qī qíng liù yù (thất tình: 喜怒哀惧爱恶欲 hỉ, nộ, ai, cụ (sợ hãi), ái, ố, dục; lục dục: 生死耳目口鼻 sinh, tử, nhĩ, mục, khẩu, tì –> này là chép trên mạng, ko hiểu sao sinh tử cũng tính vào lục dục, chẳng thấy liên quan gì đến mấy thứ khác).
Thâu hương thiết ngọc – 偷香窃玉 – tōu xiāng qiè yù (trộm hương cắp ngọc – nói chung là chỉ hành vi đàn ông dẫn dụ đàn bà).
Thâu kê bất thành thực bả mễ – 偷鸡不成蚀把米 – tōu jī bù chéng shí bǎ mǐ (tục ngữ, trộm gà không được còn mất nắm gạo, version văn vẻ thì là Vừa mất phu nhân lại thiệt quân nhỉ???).
Thế bất khả đáng – 势不可当 – shì bù kě dāng (thế ko thể ngăn cản được).
Thế cô lực bạc – 势孤力薄 – shì gū lì báo.
Thế khuynh triều dã – 势倾朝野 – shì qīng cháo yě (thế lực khuynh đảo triều chính).
Thế như phá trúc – 势如破竹 -shì rú pò zhú (tương đương thế như chẻ tre).
Thế ngoại đào nguyên – 世外桃源 – shì wài táo yuán (google image ra nhiều ảnh đẹp lắm).
Thế tại tất đắc – 势在必得 – shì zài bì dé (hình dung người ở thế kiên quyết phải đạt được người/ vật/ việc nào đó).
Thi tình họa ý – 诗情画意 – shī qíng huà yì (ý họa tình thơ).
Thi trung hữu họa –  诗中有画 – shī zhōng yǒu huà (trong thơ có họa).
Thị tử như quy – 视死如归 – shì sǐ rú guī (coi chết như về, trời gì mà từ thời Hàn Phi tử, Lã thị Xuân thu đã dùng cụm này).
Thiên cao địa hậu –  天高地厚 – tiān gāo dì hòu (trời cao đất dày).
Thiên cơ bất khả tiết lộ – 天机不可泄露 – tiān jī bù kě xiè lù.
Thiên đường hữu lộ vô nhân đáo, Lao môn khẩn bế hữu nhân xao – 天堂有路无人到,牢门紧闭有人敲 (ngạn ngữ, xao: gõ cửa; thiên đường có lối mà ko đi, nhà lao đóng chặt cứ gõ cửa).
Thiên hạ bản vô sự, dung nhân tự nhiễu chi – 天下本无事,庸人自扰之 -tiān xià běn wú shì,yōng rén zì rǎo zhī(Dung nhân: người bình thường, tầm thường, chữ dung này trong Trung Dung ý; thiên hạ vốn là chẳng có chuyện gì xảy ra mà tự làm rối cả lên ).
Thiên hạ hưng vong, thất phu hữu trách – 天下兴亡,匹夫有责 – tiān xià xīng wáng,pǐ fū yǒu zé (thiên hạ còn thay bằng quốc gia)
Thiên hạ vô bất tán diên tịch – 天下无不散筵席 – tiān xià wú bù sàn yán xí (diên: tiệc rượu, cỗ; diên tịch: chiếu ngồi ăn tiệc, dùng để hình dung tiệc rượu –> thiên hạ ko có bữa tiệc nào là ko tàn).
Thiên hạ vô song – 天下无双 – tiān xià wú shuāng.
Thiên hữu bất trắc phong vân, nhân hữu đán tịch họa phúc – 天有不测风云,人有旦夕祸福 – tiān yǒu bù cè fēng yún,rén yǒu dàn xī huò fú (trời có lúc gió mây bất trắc, người có lúc họa phúc sớm chiều).
Thiên kiều bách(bá) mị – 千娇百媚 – qiān jiāo bǎi mèi (chỉ mỹ nhân mỹ lệ động lòng người, cũng xuất phát từ 1 câu thơ hẳn hoi, nhưng lười ko chép lại vào đây? [hôm nay là ngày 29/10/2012 sorry đang mắc bệnh rất lười]).
Thiên kinh địa nghĩa – 天经地义 – tiān jīng dì yì (đại loại là chỉ những quy luật quy tắc đạo lý không thể thay đổi, ví dụ như, con chim kia phải nghe lời ta là chuyện thiên kinh địa nghĩa :D).
Thiên la địa võng – 天罗地网 – tiān luó dì wǎng.
Thiên lý chi hành, thủy vu túc hạ – 千里之行,始于足下 –  Qiān lĭ zhī xíng, shĭ yú zú xià (xuất xứ, Lão tử; ai chà quá lười nên copy luôn nghĩa dịch sang tiếng Anh của baidu: The Longest Journey Begins With A single step hoặc là Little by little one goes far [hôm nay là ngày 7/11/2012 nhé, ghi lại để biết những hôm nào lười]).
Thiên lý nan dung – 天理难容 – tiān lǐ nán róng.
Thiên lý nhân duyên nhất tuyến khiên – 千里姻缘一线牵 – qiān lǐ yīn yuán yī xiàn qiān (nhân duyên ngàn dặm đều do 1 sợi chỉ [của Nguyệt lão] ràng buộc).
Thiên lý tương tống, tổng hữu nhất biệt – 千里相送,总有一别 (ngàn dặm đưa tiễn rồi cũng phải chia tay) hoặc là Tống quân thiên lý, chung hữu nhất biệt – 送君千里,终有一别 (tiễn người ngàn dặm, đến cuối cùng cũng phải chia ly, hic, ko biết là thể loại gì, nhưng thấy ti vi sách vở cũng hay dùng mấy câu này lắm).
Thiên ngoại hữu thiên – 天外有天 – tiān wài yǒu tiān (ngoài trời còn có trời cao hơn).
Thiên nhược hữu tình thiên diệc lão – 天若有情天亦老 – tiān ruò yǒu qíng tiān yì lǎo (trời mà  có tình thì trời cũng già, tình là chỉ tình cảm bi thương –> hình như cũng từ 1 bài thơ nào đó, nhưng lười check).
Thiên phương bách kế – 千方百计 – qiān fāng bǎi jì.
Thiên quân dị đắc, nhất tướng nan cầu – 千军易得,一将难求 – qiān jūn yì dé,yī jiàng nán qiú (nghìn quân dễ kiếm, một tướng khó tìm).
Thiên tải nan phùng – 千载难逢 – qiān zǎi nán féng (tải: 1 năm, (cơ hội) ngàn năm khó gặp).
Thiên tri địa tri, nhĩ tri ngã tri – 天知地知,你知我知 – tiān zhī dì zhī,nǐ zhī wǒ zhī (trời biết đất biết, anh biết ta biết (ngoài ra ko còn ai khác, check điển cố, giải thích ở đây) –> hơ hơ hay nghe thấy câu này trong phim TQ, dùng theo phản nghĩa, đại loại là trời biết đất biết, anh biết ta biết, sao lại bảo là ko ai biết ??? 天知地知,你知我知,何谓不知? thiên tri địa tri nhĩ tri ngã tri hà vị bất tri?).
Thiên trường địa cửu –  天长地久 – tiān cháng dì jiǔ.
Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu – 天网恢恢,疏而不漏 – tiān wǎng huī huī,shū ér bù lòu (chữ trong Lão tử. Lưới trời lồng lồng, thưa mà không lọt).
Thiên vô nhị nhật, nhân vô nhị chủ – 天无二日,民无二主 – tiān wú èr rì,mín wú èr zhǔ (ngạn ngữ, tóm lại là 1 bầu trời ko thể có 2 mặt trời, một nước ko thể có 2 vua).
Thiên vô tuyệt nhân chi lộ – 天无绝人之路 – tiān wú jué rén zhī lù (cũng thỉnh thoảng đọc thấy câu này, trời ko bao giờ tuyệt đường con người –> hehe đọc nhiều truyện chưởng quá đây mà).
Thiên y vô phúng – 天衣无缝 – tiān yī wú fèng (từ cuối thấy từ điển ghi động từ có nghĩa là khâu vá, đọc là phùng, còn danh từ có nghĩa là đường khâu, đọc là phúng; y phục của thần tiên không có đường khâu; dùng để hình dung sự việc hoàn mỹ, kế hoạch chu mật, làm việc ko lưu lại dấu tích).
Thiên ý nan vi – 天意难违 – tiān yì nán wéi (ý trời khó trái – check đoạn này trên google ra ngay đoạn youtube bác Gia Cát Lượng, thật tội nghiệp).
Thiện dục nhân kiến, bất thị chân thiện; Ác khủng nhân tri, tiện thị đại ác – 善欲人见,不是真善;恶恐人知,便是大恶 (xuất xứ: Chu tử – Chu Bách Lư “Trị gia cách ngôn”: làm việc tốt mà muốn người khác biết, thì chưa phải là người tốt hoặc việc tốt thật sự; làm việc xấu, nhưng chỉ sợ người khác biết, thì đúng là người xấu/ việc xấu ).
Thính quân nhất tịch thoại, thắng độc thập niên thư – 听君一席话,胜读十年书 (nghe một câu nói của anh, hơn là 10 năm đọc sách).
Thoái (thối) nhất bộ hải khoát thiên không – 退一步海阔天空 – tuì yībù hǎi kuò tiān kōng (lùi một bước [sẽ nhìn thấy] trời cao biển rộng, còn thấy để trong 1 vế là Nhẫn nhất thời phong bình lãng tĩnh – 忍一时风平浪静 – Thoái nhất bộ hải khoát thiên không, thấy ở đây giải thích thế này: Sometimes, if you’re working too much to solve a problem, it helps to step back from it, and new solutions will often present themselves).
Thoại trung hữu thoại – 话中有话 – huà zhōng yǒu huà (trong lời hàm chứa ý nghĩa khác, lại chữ trong Hồng Lâu Mộng).
Thông minh phản bị thông minh ngộ – 聪明反被聪明误 – cōng míng fǎn bèi cōng míng wù (tự cho là thông minh ngược lại bị thông minh làm hại).
Thủ chu đãi thố – 守株待兔 – shǒu zhū dài tù (ôm cây đợi thỏ).
Thủ hạ lưu tình -手下留情 – shǒu xià liú qíng.
Thủ khẩu như bình – 守口如瓶 – shǒu kǒu rú píng (giữ kín miệng như bình = kín miệng như bưng).
Thủ trường bổ đoản – 取长补短 – qǔ cháng bǔ duǎn (lấy dài bù ngắn, lấy sở trường của người này, để bù vào chỗ sở đoản của người kia).
Thụ dục tĩnh nhi phong bất đình – 树欲静而风不停  shù yù jìng ér fēng bù tíng (cây muốn lặng mà gió chẳng đừng).
Thụ đảo hồ tôn tản – 树倒猢孙散 – shù dǎo hú sūn sàn(cây đổ khỉ tản đi hết ).
Thụ sủng nhược kinh -受宠若惊 – shòu chǒng ruò jīng (Kinh, thấy mạng ghi xuất xứ là sách Lão tử hẳn hoi. Vì được sủng ái ngoài ý liệu nên cảm thấy kinh hỷ và bất an. Ví dụ như bây giờ con Điểu nhi tự nhiên tặng mình chục triệu tiền mừng tuổi là mình thụ sủng nhược kinh liền [09/01/ 2013]).???
Thuận đằng mạc qua – 顺藤摸瓜 – shùn téng mō guā (lần theo dây leo tìm quả dưa –> đại loại là lần theo dấu vết để tìm hiểu sự tình).
Thuận ngã giả xương, nghịch ngã giả vong – 顺我者昌,逆我者亡- shùn wǒ zhě chāng,nì wǒ zhě wáng (thuận ta thì sống, nghịch ta thì chết).
Thủy chung như nhất – 始终如一 –  shǐ zhōng rú yī (trước sau như một).
Thủy hỏa bất tương dung – 水火不相容 – shuǐ huǒ bù xiāng róng (đối lập như nước lửa ko chấp nhận được nhau).
Thủy khả tái chu, diệc khả phúc chu – 水可载舟,亦可覆舟 – shuǐ kě zài zhōu,yì kě fù zhōu (nước có thể nâng thuyền, cũng có thể lật thuyền).
Thủy lạc thạch xuất- 水落石出 – shuǐ luò shí chū (nước rút đá lộ , hàm ý sự thật được phơi bày ra ánh sáng. Xuất phát: Tô thức – Hậu Xích bích phú).
Thủy tính dương hoa – 水性杨花 – shuǐ xìng yáng huā (chỉ tính tình hành vi như nước, luôn chảy, như hoa liễu, luôn phiêu động bất định, ngày xưa dùng để chỉ người phụ nữ tình cảm ko chuyên nhất, tác phong cẩu thả tùy tiện).
Thư trung tự hữu hoàng kim ốc, Thư trung tự hữu nhan như ngọc – 书中自有黄金屋,书中自有颜如玉 – shū zhōng zì yǒu huángjīn wū (đây là 1 câu của Tống Chân Tông, nghĩa là trong sách tự có nhà vàng, tự có người đẹp như ngọc; Hay thấy Nho gia dẫn câu này để đề cao việc đọc sách, hồi trước đọc Liêu trai chí dị cũng có truyện 1 anh mọt sách chỉ yêu sách, tin sái cổ vào câu này, sau trong sách có 1 em xinh tươi hiện ra xưng tên là Nhan Như Ngọc).
Thức thời vụ giả vi tuấn kiệt – 识时务者为俊杰 – shí shí wù zhě wéi jùn jié (kẻ thức thời là trang tuấn kiệt).
Thực cổ bất hóa – 食古不化 –  shí gǔ bù huà (thực: ăn; cổ: những thứ cổ xưa???; hóa: tiêu hóa; đại loại là cổ hủ, hoc kiến thức nhưng ko biết linh động vận dụng vào tình huống thực tế).
Thương hải tang điền – 沧海桑田 – cāng hǎi sāng tián (biển xanh (biến thành) nương dâu).
Thương thiên hại lý – 伤天害理 – shāng tiān hài lǐ (hình dung hành động hung ác tàn nhẫn, mất hết thiên lương, gây tổn hại đến thiên đạo luân lý).
Tỉ thượng bất túc tỉ hạ hữu dư – 比上不足,比下有余 – bǐ shàng bù zú,bǐ xià yǒu yú (so với trên thì ko đủ, nhưng so với dưới thì có thừa–> có giống trông lên ko bằng ai, nhưng nhìn xuống ko ai bằng mình ko nhỉ???).
Tiên hạ thủ vi cường – 先下手为强 – xiān xià shǒu wéi qiáng.
Tiên phát chế nhân – 先发制人 – xiān fā zhì rén (một trong 36 kế; phát là phát động, chế là khống chế, tóm lại là hạ thủ trước để giành quyền chủ động, có thể khống chế đối phương).
Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, Hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc – 先天下之忧而忧,后天下之乐而乐 – xiān tiānxià zhī yōu ér yōu,hòu tiānxià zhī lè ér lè (Phạm Trọng Yêm đây, “tiên ưu hậu lạc” của Nguyễn Trãi thần tượng đây : lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ, là chí hướng của người trị quốc bình thiên hạ).
Tiền hô hậu ủng –  前呼后拥 – qián hū hòu yōng.
Tiền xa chi phúc, hậu xa chi giám – 前车之覆,后车之鉴 – qián chē zhī fù hòu chē zhī jiàn (xe trước đổ là gương cho xe sau).
Tiến thoái lưỡng nan – 进退两难 –  jìn tuì liǎng nàn.
Tiêu hồn đoạt phách – 销魂夺魄 – xiāo hún duó pò (chữ xuất phát từ Nho Lâm ngoại sử – thần hồn điên đảo – hình dung do bị những người/ sự vật yêu thích/ ái mộ làm cho mê mẩn = Tiêu hồn túy phách – 销魂醉魄 [ngoài lề: Nho Lâm ngoại sử là 1 tác phẩm đọc vô cùng mệt mỏi]).
Tiếu lý tàng đao – 笑里藏刀 – xiào lǐ cáng dāo (trong nụ cười có chứa gươm đao – kế thứ 10 trong 36 kế).
Tiểu bất nhẫn tắc loạn đại mưu – 小不忍则乱大谋 – xiǎo bù rěn zé luàn dà móu (việc nhỏ ko nhịn được tất làm hỏng đại sự).
Tinh bì lực tận – 精疲力尽 – jīng pí lì jìn (tinh thần mỏi mệt, lực khí dùng tận – hình dung tinh thần thể lực mệt nhọc cực độ) –> đang Tinh bì lực tận đây?
Tình bất tự cấm – 情不自禁 – qíng bù zì jīn (tình cảm lên cao/ kích động đến mức không thể tự khống chế).
Tĩnh như chỉ thủy – 静如止水 (lòng tĩnh như mặt nước lặng, ko có tạp niệm, ko bị ngoại cảnh tác động), haizz, tra lại thấy cụm chính xác hơn là 心如止水 – tâm như chỉ thủy – xīn rú zhǐ shuǐ.
Tọa sơn quan hổ đấu – 坐山观虎斗 – zuò shān guān hǔ dòu.
Toàn tâm toàn ý – 全心全意 – quán xīn quán yì.
Tống Phật tống đáo tây thiên – 送佛送到西天 – sònɡ fó sònɡ dào xī tiān (tiễn phật tiễn đến tận tây thiên – đã giúp người thì giúp cho tới cùng).
Trảm thảo trừ căn – 斩草除根 –  zhǎn cǎo chú gēn (diệt cỏ diệt tận gốc).
Trang sinh mộng điệp -庄生梦蝶 – zhuāng shēng mèng dié –> fan cuồng của Trang Tử thì hiểu rồi khỏi cần phải chú thích giải thích gì nhỉ????
Tranh quyền đoạt lợi – 争权夺利- zhēng quán duó lì.
Tri kỳ nhất bất tri kỳ nhị – 知其一不知其二 – zhī qí yī,bù zhī qí èr (chỉ biết một mà ko biết hai, câu này từ Trang tử nhé).
Tri túc thường lạc – 知足常乐 – zhī zú cháng lè  (Xuất Đạo đức kinh, biết đủ sẽ mãi an vui).
Trì trung chi vật (vật trong ao – Xuất xứ: <Tam Quốc chí. Ngô chí. Châu Du truyện> ”Lưu Bị dĩ kiêu tại hùng chi thế (hiểu  được nghĩa, nhưng ko dịch được), nhưng có các hổ tướng Quan Vũ, Trương Phi, chỉ e giao long đắc vân vũ, không phải trì trung chi vật “ –> giao long: một loại thần long trong truyền thuyết. Giao long gặp lúc có mây mưa, sẽ bay lên trời, kết  cục sẽ không ở trong ao. Tỷ dụ như người có tài năng gặp được cơ hội, sẽ thi triển hết tài hoa.).
Triêu tam mộ tứ – 朝三暮四 – zhāo sān mù sì (sáng ba chiều bốn).
Trúc lam đả thủy nhất trường không – 竹篮打水一场空 – zhú lán dǎ shuǐ yī chǎng kōng (hoặc rút gọn là Trúc lam đả thủy; dùng làn trúc để lấy nước, ko được gì cả; hình dung phí lực nhưng ko đem lại hiệu quả gì; tiếng Anh đây: to draw water with a sieve; to pour water into a sieve; to draw water with a bamboo basket; to achieve nothing).
Trường hu đoản thán – 长吁短叹 – cháng xū duǎn tàn (thở ngắn than dài).
Trường tương tư thủ- 长相厮守 (ở bên nhau trọn đời).
Tú hoa chẩm đầu – 绣花枕头 – xiù huā zhěn tóu (gối (được bọc vỏ) thêu hoa, –> hình dung người có vẻ ngoài đẹp nhưng bất tài).
Tụ thủ bàng quan – 袖手旁观 – xiù shǒu páng guān (khoanh tay đứng nhìn – hình như vn hay nói thành tọa thủ bàng quan).
Túc trí đa mưu – 足智多谋- zú zhì duō móu.
Tùy tâm sở dục – 随心所欲 – suí xīn suǒ yù (chữ trong Luận ngữ: tùy muốn làm gì thì làm, cách dùng hiện đại mang nghĩa châm biếm).
Túy ông chi ý bất tại tửu, Tại hồ sơn thủy chi gian dã – 醉翁之意不在酒在乎山水之间也 (xuất xứ: Túy ông đình ký của Âu Dương Tu. Nguyên nghĩa là  ở trong đình nhưng chân ý ko ở chỗ uống rượu, mà ở chỗ thưởng lạc cảnh đẹp xung quanh–> sau để chỉ tâm ý ko ở chỗ này mà ở chỗ khác).
Tuyết thượng gia sương – 雪上加霜 – xuě shàng jiā shuāng (trên tuyết thêm sương, hình dung liên tiếp gặp phải tai nạn, nạn này nối tiếp nạn khác, đã nạn này còn thêm nạn khác, gần nghĩa với Họa vô đơn chí, Lạc tỉnh hạ thạch, Thêm dầu vào lửa vân vân, phản nghĩa với Cẩm thượng thiêm hoa,Tuyết trung tống thán).
Tuyệt vô cận hữu – 绝无仅有 – jué wú jǐn yǒu (chỉ có một, không có thứ hai, hình dung người/ vật có rất ít, rất hiếm. Gần nghĩa độc nhất vô nhị. Xuất từ Tô Thức, Thượng hoàng đế thư).
Tứ diện thụ địch – 四面受敌- sì miàn shòu dí (tóm lại là địch đến từ mọi phía).
Tứ đại giai không – 四大皆空 – sì dà jiē kōng (câu trong Phật giáo, tất cả đều là hư không. tứ đại: đất, nước, lửa, gió).
Tứ hải giai huynh đệ – 四海皆兄弟 – sì hǎi jiē xiōng dì.
Tử hôi phục nhiên – 死灰复燃-  sǐ huī fù rán (nhiên: đốt; tro tàn đốt cháy trở lại, tỷ dụ người thất thế đắc thế trở lại, sự vật đã ko còn hoạt động nữa hoạt động trở lại, hiện nay thường để chỉ thế lực ác trùng sinh trở lại. Cũng xuất phát từ Sử ký).
Tử khứ hoạt lai – 死去活来 – sǐ qù huó lái (cụm từ xuất phát từ Hồng Lâu Mộng hồi 100 – chết đi sống lại –> trong bị đánh đến chết đi sống lại, đau khổ khóc đến chết đi sống lại, thậm chí còn yêu đến mức chết đi sống lại mới kinh :D).
Tự dĩ vi thị – 自以为是 – zì yǐ wéi shì (tự cho mình (hoặc ý kiến, cách làm của mình) là đúng, là đương nhiên–> dùng cho người hoặc là chủ quan hoặc là tự cho mình là xuất sắc).
Tự tương mâu thuẫn – 自相矛盾 – zì xiāng máo dùn (tự mâu thuẫn với chính mình).
Tương kế tựu kế – 将计就计 – jiāng jì jiù jì (đặt ra kế sách dựa trên kế sách của đối phương).
Tương kính như tân – 相敬如宾 – xiāng jìng rú bīn (tân: khách;  kính trọng nhau như khách–> chỉ vợ chồng đối đãi kính trọng nhau).
Tướng môn vô khuyển tử – 将门无犬子 – jiàng mén wú quǎn zǐ (gia đình có ông bà bố mẹ tài năng thì con cái ko thể bất tài được)  –> bạn Dật Ly cố lên, làm 1 đứa?
Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu – 酒逢知己千杯少 – jiǔ féng zhī jǐ qiān bēi shǎo (gặp tri kỷ uống rượu 1 nghìn chén vẫn còn là ít, thơ Âu Dương Tu nha).
Uy chấn thiên hạ – 威震天下 – wēi zhèn tiān xià (uy danh vang dội chấn động cả thiên hạ) – Danh chấn thiên hạ – 名震天下 (tiếng tăm vang dội thiên hạ).
Uy phong lẫm lẫm –  威风凛凛 – wēi fēng lǐn lǐn.
Vạn niệm câu hôi (khôi) – 万念俱灰 – wàn niàn jù huī (mọi ý niệm đều đã thành tro).
Vạn sự câu bị, chỉ khiếm đông phong – 万事俱备,只欠东风 – wàn shì jù bèi,zhǐ qiàn dōng fēng (vạn sự đủ cả, chỉ thiếu gió đông, lại Tam Quốc diễn nghĩa).
Vạn tiễn xuyên tâm – 万箭穿心 – wàn jiàn chuān xīn (hàng vạn mũi tên xuyên vào tim –> hình dung cực kỳ đau khổ bi thương).
Vạn tử bất từ – 万死不辞 – wàn sǐ bù cí (chết vạn lần cũng ko từ nan. Câu xuất phát từ Tam Quốc diễn nghĩa).
Văn võ song toàn – 文武双全 – wén wǔ shuāng quán.
Vân đạm phong khinh – 云淡风轻 – yún dàn fēng qīng (mây nhạt gió nhẹ, đại loại là gió thổi phất phơ, mây trôi lững lờ, chỉ thời tiết đẹp. Xuất phát từ thơ Trình Hạo- Xuân nhật ngẫu thành: Vân đạm phong khinh cận ngọ thiên, Bàng hoa tùy liễu quá tiền xuyên. Hay được mượn để biểu đạt tâm cảnh điềm đạm, nhàn nhã, an tĩnh. Hì trong truyện ngôn tình hay thấy viết là: hắn vân đạm phong khinh nói rầng a b c d …. hắn cười vân đạm phong khinh 28/11/2012).
Vật cực tất phản – 物极则反- wù jí zé fǎn : Sự vật, hiện tượng phát triển cho tới cùng cực thì sẽ chuyển hóa ngược lại. Câu này là kinh điển của Đạo giáo. Em rất thích câu này
Vật thị nhân phi – 物是人非 – wù shì rén fēi (xuất phát từ bài Võ Lăng xuân của Lý Thanh Chiếu, vật vẫn còn nguyên như cũ, mà người đã ko còn là người cũ nữa).
Viễn thủy cứu bất đắc cận hỏa – 远水救不得近火 – yuǎn shuǐ jiù bù dé jìn huǒ (nước xa không cứu được lửa gần).
Vô dụng võ chi địa – 无用武之地 – wú yòng wǔ zhī dì  (không có đất dụng võ).
Vô độc bất trượng phu – 无毒不丈夫 – wú dú bù zhàng fū (ko độc ko phải là trượng phu).
Vô kế khả thi – 无计可施 – wú jì kě shī.
Vô phong bất khởi lãng – 无风不起浪 – wú fēng bù qǐ làng (ko có gió làm sao nổi sóng = không có lửa làm sao có khói).
Vô sự bất đăng tam bảo điện – 无事不登三宝殿 -wú shì bù dēng sān bǎo diàn (đại loại ko có việc thì ko đến gõ cửa).
Vô sự hiến ân cần, phi gian tức đạo – 无事献殷勤,非奸即盗- wú shì xiàn yīnqín, fēi jiān jí dào (ngạn ngữ, hiến này trong cống hiến, cũng còn có nghĩa là biểu hiện, tỏ ra; không có việc gì mà tỏ ra ân cần, không phải gian cũng là trộm).
Xu viêm phụ thế – 趋炎附势 – qū yán fù shì (xu: hùa theo, thuận theo; viêm: nóng -> chỉ quyền lực –> chỉ người xu phụ người có quyền lực) (chữ viêm này là viêm trong các bệnh viêm phổi viêm gan vân vân, các bệnh phát nóng, sưng đau).
Xuân hoa thu nguyệt – 春花秋月 – chūn huā qiū yuè (hoa mùa xuân, trăng mùa thu –> chỉ mỹ cảnh mùa xuân, thu).
Xuân tàm đáo tử ti phương tận – 春蚕到死丝方尽 – chūn cán dào sǐ sī fāng jìn (tằm đến chết mới nhả hết tơ – > Lý Thương Ẩn :-)).
Xuất môn khán thiên sắc, Tiến môn khán kiểm sắc – 出门看天色,进门看脸色 – chū mén kàn tiān sè jìn mén kàn liǎn sè(ngạn ngữ, ra ngoài cửa nhìn sắc trời, bước vào cửa nhìn sắc mặt người).
Xuất nhân ý liệu – 出人意料 – chū rén yì liào (nằm ngoại dự liệu của mọi người. Chữ xuất phát từ Sử ký Tư mã Thiên).
Xuất quỷ nhập thần – 出鬼入神 – chū guǐ rù shén (biến hóa ko lường trước được).
Xuất sinh nhập tử – 出生入死 – chū shēng rù sǐ (vào sinh ra tử).
Ý loạn tình mê – 意乱情迷 – yì luàn qíng mí.
Yêu phong đắc phong, yêu vũ đắc vũ – muốn gió được gió, muốn mưa được mưa.
0 notes
podaily · 4 years
Text
佳利山珠寶銀樓
Tumblr media Tumblr media
成立於民國65年的【佳利山珠寶銀樓】鄰近高雄捷運『前鎮高中站2號出口』步行15分鐘即可到達,為當地頗具知名的精品銀樓店家,在地深耕經營多年,一直堅持以「良心」建立企業,用「品質」書寫信譽,深受眾顧客的好評信賴與肯定!
【佳利山珠寶銀樓】目前由第二代負責人接手經營,致力提供給消費者最高品質的金銀珠寶首飾,除了對於自家金飾珠寶的精細作工與高品質水準的講究外,還與時俱進的為顧客引進最新時尚品味的精緻飾品,飾品品項豐富、款式眾多新穎、工藝精細雅致、設計風格多元,【佳利山珠寶銀樓】絕對滿足不同年齡層族群的喜好與品味!
擁有『GIA寶石鑑定師』為顧客提供專業的鑑定服務,專業技術、品質有保證!專業服務團隊為顧客詳細介紹與解說,透過聊天過程中了解顧客需求,並為顧客搭配建議最合心意之珠寶金飾,經過精湛工藝淬煉的珠寶飾品,記錄著每一位送禮者與收禮者的珍貴回憶,完善的售前售後服務,以最穩健的腳步與同步市場的創…
View On WordPress
0 notes
khaimocom · 5 years
Text
Nhìn lại lịch sử Bách Việt và quá trình Hán hóa Bách Việt
Tumblr media
Khi đọc những câu hỏi “Vì sao đã thống trị Việt Nam hơn ngàn năm mà cuối cùng Trung Quốc vẫn không thể đồng hóa Việt Nam?”. Hoặc “Người Việt Nam (tộc người Kinh) vì sao mà khó đồng hóa như vây?(1), nhiều người nghĩ chắc là ý kiến của những anh chàng người Việt nặng đầu óc dân tộc chủ nghĩa. Nhưng thật bất ngờ, những câu hỏi này và tương tự như vậy hiện là những chủ đề nóng của các diễn đàn tranh luận trên mạng Internet của người Trung Hoa, bằng tiếng Trung chứ không phải của người Việt.
Tumblr media
Tượng Thừa tướng Nam Việt Lữ Gia ở Linh Tiên Đạo Quán, Hoài Đức, HN. Họ đã chất vấn nhau, đại loại thế này: Hơn một nghìn năm, trước khi nhà Tống lên ngôi, Giao Châu là thuộc Trung Hoa, dù chị em họ Trưng có nổi dậy cũng chỉ mấy năm là dẹp yên. Thế mà vì sao từ đời Tống trở đi các triều đại Trung Hoa không thể thu phục nổi Việt Nam. Hơn nữa, dân tộc Việt Nam, người Kinh ấy, từ đâu mà ra, hình thành từ lúc nào? Người Hán chúng ta từ cổ xưa đã có sức đồng hóa cực mạnh. Số dân tộc đã bị Hán tộc đồng hóa không đếm xuể. Tại sao chừng ấy năm đô hộ vậy mà không đồng hóa nổi Việt Nam… Nếu An Nam là thuộc Trung Quốc từ thời đó, liệu bây giờ quần đảo Nam Sa (VN gọi là Trường Sa) có thành vấn đề không? Việt Nam có còn chiếm được nhiều đảo ở Nam Sa như bây giờ không? Là người Việt Nam, chắc ai cũng muốn chính mình tìm câu trả lời cho những câu hỏi thú vị đó. Chúng ta từng nghe nói rằng, từ xa xưa một dải giang sơn mênh mông từ Nam sông Dương Tử trở về Nam là nơi các tộc dân Việt sinh sống và phát triển nền văn minh lúa nước rực rỡ. Thế rồi ngày nay, hầu hết đều trở thành lãnh thổ và giang sơn của người Hán, dùng Hán ngữ và văn hóa Hán. Quá trình đó người ta quen gọi là Hán hóa. Vì vậy nhìn lại lịch sử Bách Việt và quá trình Hán hóa Bách Việt, và quá trình Hán hóa Bách Việt, là một cách ôn cố tri tân hữu ích. Đáng tiếc là thời xa xưa đó lịch sử chủ yếu ghi chép lại bằng Hán ngữ cổ ở Trung Hoa, không dễ tiếp cận với đa số hiện nay. Vì lẽ đó người viết bài này cố gắng tóm tắt những gì mà sử sách cổ còn ghi lại, kết hợp với những tài liệu khoa học đã công bố của một số học giả uy tín trên thế giới, ngõ hầu cung cấp một vài thông tin hữu ích, nhiều chiều, kể cả còn đang tranh cãi.   Bách Việt là ai và ở đâu?   Vào thời thượng cổ, từ đời nhà Thương 商朝 (khoảng 1600-1046 TCN), trong văn tự thì chỉ có một chữ Việt 戉 (nghĩa là cái rìu), cũng là tên chung cho tộc người ở phía Nam không phải là người Trung Hoa, do tộc người này sử dụng rìu (Việt) làm công cụ. Về sau, vào thời Xuân Thu Chiến quốc 春秋 戰國 (722-221 TCN) bắt đầu trong văn tự có hai chữ Việt là 越 và 粤, đều chỉ bộ tộc Việt, dùng như nhau (Sách cổ viết là 越粵互通-Việt Việt Hỗ Thông), ta hay gọi 越 là Việt bộ tẩu 走 (đi, chạy) và Việt 粤 là Việt bộ mễ 米-(lúa)2. Trong Hán ngữ cận, hiện đại, hai chữ Việt này (có thể từ sau đời Minh) thì dùng có phân biệt rõ ràng. Chữ Việt bộ tẩu 越 là ghi tên tộc Việt của nước Việt có lãnh thổ ở vùng Bắc Triết Giang, ngày nay là vùng Thượng Hải, Ninh Ba, Thiệu Hưng (Cối Kê 會稽 xưa). Một loại ca kịch cổ ở vùng này vẫn còn tên là Việt Kịch 越剧. Chữ Việt bộ tẩu này cũng là tên của tộc Nam Việt (Triệu Đà) Âu Việt và Lạc Việt (Việt Nam ngày nay), Mân Việt (Phúc Kiến), Điền Việt (Vân Nam, Quảng Tây)… Chữ Việt 粤 bộ mễ 米 ngày nay dùng ghi tên cư dân vùng Quảng Đông, Hồng Kong, Ma Cao… những cư dân này sử dụng ngôn ngữ gọi là tiếng Quảng Đông (Cantonese). (Ai đến Quảng Châu đều thấy biển xe ô tô đều bắt đầu bằng chữ 粤 là vì vậy). Bởi vì xưa có đến hàng trăm tộc Việt, cho nên sử sách gọi chung là Bách Việt 百越 hoặc 百粤. Tên gọi Bách Việt xuất hiện trong văn sách lần đầu tiên trong bộ Lã thị Xuân Thu 吕氏春秋 của Lã Bất Vi 呂不韋 (291–235 TCN) thời nhà Tần. Trong lịch sử Trung Hoa, toàn bộ vùng đất Giang Nam (tên gọi vùng Nam Sông Dương Tử), rộng bảy tám ngàn dặm từ Giao Chỉ đến Cối Kê, từ trước thời Tần Hán đều là nơi cư ngụ của các tộc Bách Việt. Thời nhà Hạ gọi là Vu Việt 于越, đời Thương gọi là Man Việt 蛮越 hoặc Nam Việt 南越, đời Chu gọi là Dương Việt 扬越, Kinh Việt 荆越, từ thời Chiến quốc gọi là Bách Việt百越. Sách Lộ Sử của La Bí (1131 - 1189) người đời Tống viết3: Việt thường, Lạc Việt, Âu Việt, Âu ngai, Thả âu, Tây âu, Cung nhân, Mục thâm, Tồi phu, Cầm nhân, Thương ngô, Việt khu, Quế quốc, Tổn tử, Sản lí (Tây Song Bản Nạp), Hải quý, Cửu khuẩn, Kê dư, Bắc đái, Phó cú,  Khu ngô (Cú ngô)…, gọi là Bách Việt.
Tumblr media
Hán Hóa Bách Việt - Giai đoạn từ thượng cổ đến trước thời Tần-Hán Gọi Hán hóa chỉ là để cho tiện thôi, thực ra không đúng, vì lúc này làm gì đã có nhà Hán. Hai nước Ngô - Việt là những tộc Bách Việt được ghi chép rất sớm trong sử sách. Nước Ngô 吴国,còn gọi là Cú Ngô 句吴, Công Ngô 工吴,攻吾… lập quốc vào thời Chu Vũ Vương (thế kỷ 12 TCN), kinh đô ở Tô Châu 苏州 ngày nay, từ thủy tổ là Ngô Thái Bá 吳太伯 truyền đến Phù Sai夫差 thì bị diệt vong bởi nước Việt (473 TCN). Thực ra ghi chép sớm nhất trong sử sách là Vu Việt 于越, tiền thân của nước Việt 越 国 thời Chiến quốc. Nước Việt đã tồn tại muộn nhất cũng từ thời nhà Thương, không tham gia vào sự kiện Vũ Vương Phạt Trụ (1046 TCN), nhưng sử có ghi là khá lâu trước đó đã làm tân khách của Chu Thành Vương 周成王(1132 - 1083 TCN). Nước Việt đã có một văn hóa dân tộc đặc sắc, gọi là Văn hóa Mã Kiều 馬橋文化, mà các chứng tích đã tìm thấy khi khai quật di chỉ Thái Hồ 太湖地區. Nước Việt định đô ở Cối Kê 會稽 (Thiệu Hưng ngày nay) truyền đến đời Câu Tiễn句踐 (496 - 464 TCN) thì bành trướng lên phía Bắc, năm 473 TCN sau khi diệt nước Ngô, mở rộng bờ cõi Bắc chiếm Giang Tô 江蘇, Nam đoạt Mân Đài 閩台 (tức Phúc Kiến ngày nay), Đông giáp  Đông Hải 東海, Tây đến Hoàn Nam 皖南 (phía Nam An Huy ngày nay), hùng cứ một cõi Đông Nam. Đến năm 306 TCN, nước Sở 楚國 nhân nước Việt, triều vua Vô Cương, nội loạn, bèn liên kết với nước Tề 齊國 tiến chiếm nước Việt, đổi thành quận Giang Đông, nước Việt tuyệt diệt và bị Sở hóa từ đó. Những sự kiện này được ghi chép tỉ mỉ trong bộ sử Ngô Việt Xuân Thu 吳越春秋 do Triệu Diệp 赵晔 thời Đông Hán soạn (~năm 25). Các nhà khoa học thế giới ngày nay cũng đã phục dựng đầy đủ lịch sử này, ví dụ xem Eric Henry4. Đến đây cần nói rõ, Sở là gốc Hoa Hạ (sau này gọi là Hán) hay là Bách Việt, hiện còn nhiều tranh cãi. Dân Hoa Hạ (chính là tộc Hán sau này) nhận mình là con cháu của Tam Hoàng, Ngũ Đế. Tam Hoàng thì rất thần tiên, mơ hồ, Ngũ Đế có vẻ cụ thể hơn. Theo Sử Ký của Tư Mã Thiên5 thì đó là năm chi: Hoàng Đế (黃帝), Chuyên Húc (顓頊), Đế Cốc (帝嚳), Đế Nghiêu (帝堯), Đế Thuấn (帝舜). Dân nước Sở tự nhận thuộc chi Chuyên Húc, họ Cao Dương 高阳 tức là tộc Hoa Hạ (Hán). Đất nước Sở nằm ở đoạn giữa sông Trường Giang, vùng Nam Bắc Hồ Động Đình, quen gọi là vùng Kinh Sở (Hồ Bắc - Hồ Nam của Trung Hoa ngày nay). Vùng Kinh Sở nằm chồng lấn phía Nam lưu vực sông Hoài sông Vị của dân Trung Nguyên Hoa Hạ. Đó là vùng đất đầu tiên mà một chi của dân Hoa Hạ (chi Chuyên Húc) thiên di xuống. Nhà thơ Khuất Nguyên (340 - 278 TCN) người nước Sở, mở đầu bài thơ Ly Tao đã viết6: Bá Dung nhớ cha ta thuở nọ, /Vốn dòng vua về họ Cao Dương (Nhượng Tống dịch thơ). Trước khi con cháu Cao Dương nam thiên đến đây, dân bản địa là tộc nào? Nước Sở lập quốc vào cuối đời Thương đầu đời Chu (1042 TCN). Sách Sử Ký - thiên Sở Thế gia viết rằng người Sở là dân Man (Sở Man), vua Sở nhận mình là dân Man Di7. Man là chữ người Hoa Hạ gọi dân miền Nam không phải là Trung Hoa. Những khai quật khảo cổ ở vùng Kinh Sở gần đây cũng cho thấy rằng thực ra cư dân tối cổ ở vùng Kinh Sở có nguồn gốc Tam Miêu, một dân tộc thuộc nhóm Bách Việt. Đây có thể là nhóm Âu Việt ở phía Tây nên còn gọi là tộc Tây Âu, để phân biệt với Đông Âu là tộc Âu Việt phía Đông, tức vùng Mân - Đài (Phúc Kiến). Tộc Tây Âu, theo các nhà dân tộc học, có thể là tổ tiên các tộc H’mông, Lào, Miến, Thái… hiện nay, ít nhiều cũng có cùng huyết thống người Việt Nam cổ. Như vậy là quá trình Trung Hoa hóa dân Man (Miêu tộc bản địa) đã bắt đầu từ cuối Thương đầu đời Chu rồi. Có thể tạm gọi đó là đợt đồng hóa thứ nhất. Sự Trung Hoa hóa theo thế lực nước Sở, bành trướng đến Trùng Khánh, Quý Châu, về sau sang tiếp phía Đông, trở thành một trong thất hùng thời Chiến quốc. Đặc biệt là quý tộc Sở cổ đều có họ Hùng (熊 - con gấu), vua Sở là Hùng Vương, phải chăng có liên hệ gì đó đến Hùng Vương ở Việt Nam, chỉ khác chữ Hán viết 雄 - hùng mạnh, (trong sử Trung Hoa cổ không tìm thấy ghi Hùng Vương 雄 này, có lẽ đây là do các nhà Nho Việt Nam viết lại sau này!). Tóm lại đến thời Khuất Nguyên, rồi sau đó là lúc Sở diệt Việt phía Đông, thì Sở đã hoàn toàn biến thành dân Trung Hoa, và quá trình Trung Hoa hóa Ngô - Việt là quá trình đồng hóa thứ hai, tiến hành thông qua nước Sở. Các nhà khoa học Nhật, Mỹ, đã có nhiều phát hiện, chứng minh nền văn minh Ngô Việt sau khi nước Việt bị diệt và Trung Hoa hóa (đúng hơn là Sở hóa), đã theo dòng người Ngô Việt chạy ra biển sang Nhật Bản (tiếng Nhật Bản đọc Hán tự theo kiểu nước Ngô, nên gọi là ごおん-Go On- Ngô âm 呉音). Nền văn minh đó chủ yếu theo bộ phận tinh hoa của dân Ngô Việt chạy xuống phía Nam hợp lưu cùng Việt bản địa, thành ra văn minh Việt kéo từ Lĩnh Nam (phía Nam dãy Ngũ Lĩnh - tức Bắc Lưỡng Quảng ngày nay) đến Giao Chỉ. Theo phát hiện của Jerry Norman và Tsu-lin Mei (Washington University và Cornell University) thì nhiều từ cổ của tộc Việt nước Ngô Việt hiện vẫn thông dụng trong tiếng Việt ngày nay, ví dụ các từ: chết; chó, đồng (trong đồng cốt), sông, khái (hổ), ngà (trong ngà voi), con (trong con cái), ruồi, đằm (trong đằm ướt), sam (con sam), biết; bọt , bèo…8 Điều này chứng tỏ rằng dân Lạc Việt ít nhiều có cùng huyết thống với dân Ngô Việt xưa. (Xem bản đồ). Hán hóa Bách Việt- Giai đoạn sau thời Tần-Hán Cho đến trước khi Tần Thủy Hoàng diệt được sáu nước, dẹp bỏ nhà Chu, thống nhất Trung Hoa (221 TCN) thì dân Hoa Hạ (Hán tộc) chỉ chiếm lãnh và đồng hóa được dải đất từ Hoàng Hà xuống đến Ngũ Lĩnh9, còn từ Ngũ Lĩnh trở về Nam (Lưỡng Quảng, Giao Chỉ, Hải Nam... gọi tắt là Lĩnh Nam) thuộc về Âu Việt (gọi chung Tây Âu và Đông Âu) và Lạc Việt. Từ Kinh Sở trở về Tây, Tây Nam (Vân Nam) vẫn còn thuộc về Điền Việt, Tây Âu, Đại Lý… Vùng Bách Việt phía Tây Nam này (Vân Nam) thì mãi đến thế kỷ 12 còn độc lập, dù người Hán có tiến hành nhiều cuộc chiến tranh xâm chiếm lẻ tẻ. Chỉ sau khi Mông Cổ chiếm Đại Lý (1253), Vân Nam, rồi sau đó chiếm nốt Trung Hoa, lập ra nhà Nguyên, thì Vân Nam mới nhập vào Trung Hoa. Năm 1381, Minh Thái Tổ mới bình định xong Vân Nam và cuộc Hán hóa hoàn tất rất nhanh. Ngày nay hơn 61% cư dân Vân Nam là người Hán. Vùng Lĩnh Nam chiếm làm đất Trung Hoa từ thời Tần - Hán, nhưng quá trình Hán hóa thì khá khó khăn và cho đến nay vẫn chưa xong hết (!). Cổ sử Trung Hoa chép thì Lĩnh Nam có nhiều bộ tộc Việt lập quốc như Tây Âu, Lạc Việt… có nước Dạ Lang (nhưng không thấy chép Văn Lang!). Âu và Lạc10 là một tộc Việt hay là hai tộc Việt khác nhau, cho đến tận ngày nay vẫn còn tranh cãi. Sách “Hoài Nam Tử” (139 TCN) thì chỉ viết có Tây Âu11 không có nói đến Lạc chỗ nào cả. Sách “Sử Ký” (94 TCN) muộn hơn một ít thì cũng có viết Âu, không tìm thấy chữ Lạc đứng riêng một mình, mà luôn luôn chỉ có chép Âu Lạc liền nhau12. Tuy nhiên trong Lã thị Xuân Thu (291–235 TCN) sớm nhất thì có chép” Việt Lạc-越骆”13. Việt Lạc rất có thể chính là nước Lạc Việt trong sử sách sau này, Việt Lạc là ghi âm trực tiếp từ ngôn ngữ người Việt, theo ngữ pháp Việt, còn sau này ghi Lạc Việt là ghi chép qua thông dịch sang Hán Ngữ, theo ngữ pháp Hán. Luận theo sử sách chép, có thể thời tiền Tần thì Âu và Lạc là hai chi Việt khác nhau. Thời kỳ chiến đấu chống lại Tần thì có thể hai chi Việt này liên minh lại với nhau thành một khối Âu Lạc. Lúc đó trung tâm là ở Nam Trung Hoa, vùng Vũ Minh Mã đầu (Nam Ninh - Quảng Tây ngày nay). Chỉ sau khi Hán Vũ Đế bình Nam Việt của Triệu Đà thì hai chi này mới lại phân chia ra, và trung tâm di về vùng quanh Hà Nội ngày nay. Đồng thời với nước Lạc Việt có nước Tây Âu hay Âu Việt mà người đứng đầu trong sử chép là Thục Phán. Tuy nhiên Âu Việt lập quốc lúc nào và Thục Phán từ đâu ra thì sử sách không ghi rõ. Rất nhiều ý kiến cho rằng Thục Phán là hậu duệ của vương triều nước Thục. Quả thực sử có chép một quốc gia tên là Thục Quốc, ở Tây Nam Trung Hoa ngày nay. Thường Cừ (347)người đời Tấn viết trong Sách “Hoa Dương Quốc Chí”14: “Nước Thục Đông giáp nước Ba, Nam giáp Việt, Bắc phân giới với nước Tần, Tây tựa Nga Ba”. Vị trí địa lý như vậy nên cư dân ở đây bao gồm người Khương, người Việt, người Hoa Hạ. Dòng họ Khai Minh làm vua nước Thục, truyền được 12 đời, đến năm 316 TCN đời Chu Thận Vương thì bị nhà Tần diệt15, hậu duệ chạy về phương Nam. Sử chép đến đây thì đứt đoạn, không nói gì tiếp. Cho nên về sau nói Thục Phán là hậu duệ Khai Minh thị, cha Thục Phán là Khai Minh Chế chiếm lưu vực Diệp Du Thủy (tức thượng nguồn sông Hồng)16, xưng là An Tri Vương vua nước Tây Âu, sau truyền ngôi cho con là Phán, cũng chỉ là một giả thuyết, chép lại theo truyền thuyết của tộc dân Đại Y17. Lúc này cũng là thời kỳ theo truyền thuyết là có nước Văn Lang ở phía trung và hạ lưu sông Hồng (trong cổ sử Trung Hoa không có tên nước Văn Lang, chỉ có tên một nước là Dạ Lang, liệu có liên quan đến Văn Lang không?), do dòng họ Hùng làm vua. Việc Thục Phán là hậu duệ nước Thục, cũng như nước Văn Lang có vua Hùng trị vì 18 đời trong sử An Nam là ghi lại theo truyền thuyết. Tuy nhiên Thục Vương Tử tên Phán, Hùng Vương vua Lạc Việt, Thục diệt Hùng Vương chiếm lãnh thổ, xưng là An Dương Vương thì có ghi trong sử cổ Trung Hoa từ đầu Công nguyên. Theo quyển “Việt sử lược”18, của tác giả không rõ tên, có lẽ là người Việt Nam khắc in ở Trung Hoa vào quãng cuối Nguyên đầu đời Minh (~1360), có viết về nước Văn Lang, vua là Đối Vương 碓王, sau bị Thục Phán đánh đuổi, Phán xưng là An Dương Vương. Sách cổ “Thủy kinh chú” dẫn lại lời ghi trong “Giao châu ngoại vực ký” rằng19 “… Thục Vương Tử dẫn binh tướng ba vạn đánh lại Lạc Vương 雒王, Lạc hầu 雒侯, thu phục các Lạc Tướng. Rồi đó Thục Vương Tử xưng là An Dương Vương”. Sách “Cựu Đường thư” dẫn lại “Nam Việt chí” chép20 “Đất Giao Chỉ vô cùng màu mỡ, xưa có vua xưng là Hùng Vương 雄王, có Lạc hầu phò tá. Thục Vương Tử dẫn quân tướng ba vạn tiến đánh, diệt được Hùng Vương. Thục xưng làm An Dương Vương, cai trị Giao Chỉ”. Như vậy thì sử sách có ba tên gọi cho vua nước Lạc Việt: Lạc Vương, Hùng Vương, Đối Vương. Có nhiều ý kiến cho rằng ba tên gọi này là một, chính là Lạc Vương, các tên khác do về sau sao chép nhầm chữ Lạc 雒 của Hán ngữ mà thành21. Dầu sao thì cũng có hai lý giải về truyền thuyết danh xưng Hùng Vương, một là dòng dõi họ Hùng Vương nước Sở, hai là Lạc Vương vua của dân Lạc Việt. Dù tên tuổi đúng sai thế nào, thì Hùng Vương không chỉ thuần túy là truyền thuyết của Việt Nam, mà cũng có ghi trong cổ sử Trung Hoa. Nhân vật Thục Phán tuy nguồn cội chưa xác định, nhưng cũng có thật, đánh chiếm Lạc Việt lập nên nước Âu Lạc xưng là An Dương Vương cũng là có thật, có ghi trong chính sử không chỉ của Việt Nam22. Tần diệt Sở, rồi đánh chiếm Lĩnh Nam, Đô Úy Triệu Đà được Tần cắt cử quản lĩnh Quế Lâm, Tượng Quận. Nhân khi nơi nơi nổi lên chống Tần, năm 204 TCN Triệu Đà bèn chiếm Lĩnh Nam lập nước Nam Việt, đóng đô ở Phiên Ngung (Quảng Châu) và đánh chiếm Âu Lạc. Sách “Giao Châu ngoại vực ký” chép: “Nam Việt Vương Úy Đà cử binh đánh An Dương Vương. An Dương Vương có thần nhân Cao Thông phù tá, chế ra nỏ thần cho An Dương Vương, một phát giết được ba trăm mạng”23. Sách “Thái Bình Ngự Lãm” dẫn “Nhật Nam truyện” còn chép phóng đại hơn, nỏ một phát giết ba vạn người và còn kể tỉ mỉ chuyện tình Mỵ Châu Trọng Thủy, chuyện mất nỏ thần, dẫn đến An Dương Vương thất bại24. Nước Âu Lạc từ đó nhập vào nước Nam Việt25. Triệu Đà lập nước Nam Việt năm 203 TCN, giữ độc lập với nhà Hán được 92 năm, truyền 5 đời vua, đến đời Triệu Kiến Đức và thừa tướng Lữ Gia26 thì mất nước vào tay Hán Vũ Đế năm 111 TCN. Một dải Lĩnh Nam và Đông Hải bị Hán chiếm và Hán hóa kéo dài hơn ngàn năm, ngoại trừ Lạc Việt, còn lại hoàn toàn trở thành Hán. Lạc Việt, sau hơn 1000 năm nô lệ và Hán hóa, vẫn giữ được bản sắc và nền văn minh Việt, cuối cùng thì giành được độc lập và trở thành Đại Cồ Việt, Đại Việt, Nam Việt và Việt Nam đến tận ngày nay. Đó là một trường hợp duy nhất mà Trung Hoa không thể Hán hóa được. Vì sao Đại Việt không bị Hán hóa? Đồng hóa dân tộc (national assimilation) gồm: 1 - Đồng hóa tự nhiên: đây là một xu hướng tự nhiên trong tiến trình lịch sử loài người. 2 - Đồng hóa cưỡng chế: sự cưỡng bức một dân tộc bị trị chấp nhận ngôn ngữ, chữ viết, phong tục, tập quán của dân tộc thống trị; đây là một tội ác.27 Người Hán đã thực hiện cả hai biện pháp đồng hóa này hơn một ngàn năm mà Đại Việt vẫn không bị đồng hóa, người Trung Hoa ngày nay tìm mọi lý lẽ để biện minh nhưng chính họ cũng không thấy thuyết phục lắm. Chẳng hạn: * Việt Nam ở xa Trung Nguyên, núi sông cách trở không tiện đồng hóa. Phản bác lại: Tại sao Vân Nam cũng xa, núi sông cách trở hơn nhiều mà chỉ trong mấy trăm năm đã bị đồng hóa hoàn toàn. * Việt Nam ở phương Nam, nóng ẩm, người Hán không ở được. Thế tại sao Hải Nam cũng như vậy mà lại ở được, đồng hóa xong rồi. * Tại vì số lượng người Hán di dân xuống Việt Nam ít. Thực ra, không có bằng chứng nào là ít hơn Hải Nam, Vân Nam cả. Chỉ riêng số quan lại cai trị và số quân chiếm đóng trong hơn một ngàn năm, cũng không ít hơn số dân bản địa. Chỉ có thể hiểu người Hán ở đây đã bị Việt hóa. Cũng có ý kiến cực đoan bênh vực, nói rằng thực ra đã Hán hóa dân Việt rồi nhưng từ sau năm 1945, Việt Nam đã thanh lọc lại hết! Cũng có một số kiến giải của người Trung Hoa bình thường ngày nay, xem ra cũng ít nhiều có lý, ví như: * Người Kinh có ba nguồn gốc: Người Lạc Việt, Người Thục, Người Hán. Do vậy người Kinh hấp thụ được tinh hoa của ba chủng tộc nên trở thành một tộc người ưu tú. * Người Hán ở Việt Nam kể cả các tầng lớp cai trị không đồng hóa được người Kinh, trái lại bị đồng hóa ngược trở thành người Việt. Người Kinh là một tộc người có năng lực đồng hóa mạnh, bằng nếu không nói là còn hơn người Hán. Hãy xem họ mở rộng về phía Nam thì rõ. Nhưng đó chỉ là những lý do bề ngoài mà những người bình thường có thể nhận thấy được. Thực ra, theo các nhà chuyên môn, đồng hóa dân tộc là một vấn đề khoa học lớn, rất nhạy cảm và vẫn chưa có được một lý thuyết nào đứng vững cả, vì vậy tạm thời không bàn đến lý luận trong bài này. Thông thường đồng hóa dân tộc là một sự tổng hòa gồm: * Đồng hóa chủng tộc, thường được thực hiện bằng một cuộc chinh phục và kẻ chinh phục hoặc diệt chủng dân bị chinh phục, hoặc xua đuổi dân bị chinh phục để thay thế bằng cư dân của phía chinh phục, hoặc pha loãng huyết thống. * Đồng hóa về văn hóa, tín ngưỡng. * Đồng hóa về tổ chức cộng đồng, xã hội. (Về vấn đề Văn Hóa, Ngôn Ngữ, Tín Ngưỡng, đều là những yếu tố bảo tồn dân tộc Việt, xin dành cho bài sau). Sự đồng hóa dân tộc sẽ khó được thực hiện. 1. Nếu một dân tộc có sức sống sinh học và xã hội mãnh liệt thì sự đồng hóa chủng tộc khó thành công, ví dụ điển hình là dân tộc Do Thái. 2. Đồng hóa về văn hóa, tín ngưỡng phụ thuộc vào trình độ văn minh của dân tộc. Một dân tộc mạnh về chinh chiến, có thể chiến thắng trong cuộc chinh phục, nhưng nếu trình độ văn minh thấp hơn thì sẽ bị kẻ bại trận đồng hóa, điển hình như tộc Hung Nô, Nữ Chân, Mãn Châu… đều chiến thắng người Hán nhưng lại bị Hán hóa. 3. Khi một cộng đồng dân tộc có tổ chức tốt, cố kết các thành viên bền chặt, thì dân tộc đó rất khó bị đồng hóa. Nhìn lại thì thấy người Việt (người Kinh) có đủ cả ba yếu tố 1,2,3: Người Kinh hiện nay là nơi tập hợp các thành phần ưu tú nhất của Bách Việt, bởi lẽ khi Bách Việt bị Hán hóa, các thành phần ưu tú, tinh hoa trong xã hội Việt là mục tiêu tàn sát của người Hán, do đó các thành phần này phải tháo chạy, và nơi dung nạp họ là mảnh đất cuối trời Bách Việt, tức Việt Nam ngày nay. Hãy xem thí dụ về ngôn ngữ Ngô Việt còn lưu lại trong tiếng Việt (như đã nói ở trên), đó là một bằng chứng cho sự dịch chuyển của người Ngô-Việt xuống đây. Vì vậy tộc người Kinh có sức sống mãnh liệt. Tinh hoa của văn minh Bách Việt được cô đọng lại ở người Kinh, chắc chắn không kém nền văn minh Hoa Hạ. Người Việt dù không có văn tự riêng (hay có mà bị xóa sạch sau ngàn năm nô lệ) nhưng vẫn phát triển và bảo tồn được ngôn ngữ dân tộc, dù phải mượn Hán Ngữ để ghi chép, thì thật là một kỳ tích, chẳng kém gì người Do Thái vẫn giữ được tiếng Do Thái dù bị diệt chủng và xua đuổi hai ngàn năm. Tổ chức xã hội của tộc Việt, điển hình là làng xã đã cố kết cộng đồng rất chặt. Tổ chức nhà nước cũng có rất sớm, từ thời Chiến quốc, do đó rất khó phá vỡ, nó tồn tại dấu tích sau khi khi đã độc lập. Hãy nhớ đến Hội Nghị Diên Hồng thời Trần để thấy tinh thần của tổ chức xã hội gắn kết người dân với triều đình chặt chẽ đến mức nào. Ngay cả một vương triều thất thế, bị truy đuổi như Triều Mạc, cũng không bán rẻ đất nước cho ngoại bang. Năm 1594, Mạc Ngọc Liễn chiếm giữ Vạn Ninh, trước khi chết để di chúc cho Mạc Kính Cung: “Nay vận khí nhà Mạc đã hết, họ Lê lại phục hưng, đó là số trời, dân ta vô tội mà để phải mắc nợ binh đao, sao lại nỡ thế… Lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta mà để dân ta phải lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng”28. Quân Minh đầu TK 15 cũng khó mà có thể chiếm được Đại Việt làm quận huyện nếu không có những nhóm quý tộc như nhóm Mạc Thúy, vì quyền lợi riêng bán rẻ dân tộc cho người Minh. Nên biết Mạc Thúy là hậu duệ của danh nhân Mạc Đĩnh Chi, một đại thần nhà Trần... Nhà Thanh không thể chiếm Thăng Long nếu không có vua quan bán nước Lê Chiêu Thống, tiếc thay y lại là dòng dõi của anh hùng dân tộc Lê Lợi… Than ôi! truyền thống thì hào hùng rực rỡ, tổ tiên phải đổ bao mồ hôi, xương máu mới có, nhưng bán rẻ nó đi thì thật dễ dàng. May sao tự ngàn xưa số những kẻ bán rẻ dân tộc như vậy là vô cùng nhỏ trong cộng đồng người Việt.1 CHÚ DẪN 1为什么经历了一千多年的统治,中国始终不能同化越南?“Vì sao đã thống trị Việt Nam hơn ngàn năm mà cuối cùng Trung Quốc vẫn không thể đồng hóa Việt Nam?”. http://bbs.tianya.cn/post-no05-226522-1.shtml 越南人(京族)为何难以同化 “ Người Việt Nam (tộc người Kinh) vì sao mà khó đồng hóa như vây?”  http://lt.cjdby.net/thread-1440161-1-1.html 2 Có học giả Việt đương thời theo tự dạng vội suy đoán rằng viết như vậy có lẽ chỉ tộc người vác rìu đi (chạy) săn và tộc  người trồng lúa trong ruộng. Chứng tỏ thời bấy giờ tộc Việt thuộc văn minh săn bắn và trồng trọt. Có lẽ không phải đơn giản như vậy. Khảo sát lịch sử văn tự thì thấy rằng Việt 越 và Việt粵  âm đọc  giống nhau, “Sử ký” viết là 越, “Hán thư” viết là 粤. Âm đọc 粤 là từ âm đọc của chữ Vu 于, người cổ đọc 越 là于. Vu 于 viết theo lối chữ triện 篆 là 亏, hài thanh là chữ vũ 雨-mưa, viết lên trên thành 雩. Trong “Hán Thư” còn tồn nhiều chữ cổ, nên chữ Việt 越 đều cải viết thành雩, sau theo lối chữ lệ 隶, chữ khải 楷 mới viết thành ra 粤, tức biến hóa hình chữ vũ 雨 đặt trên chữ Vu亏. 3 “路史” 罗泌 (1131—1189) 宋朝 : 越裳, 雒越, 瓯越瓯皑,  且瓯, 西瓯, 供人, 目深, 摧夫, 禽人, 苍梧, 越区, 桂国, 损子, 产里(西双版纳), 海癸, 九菌, 稽余, 北带,仆句, 区吴(句吳), 是谓百越。 #4 http://www.sino-platonic.org/complete/spp176_history_of_yue.html The Submerged History of Yuè. By Eric Henry, University of North Carolina 5 史記-司馬遷 (145 – 86 TCN) 6屈原在《离骚: 帝高阳之苗裔兮,朕皇考曰伯庸- Ðế Cao Dương chi miêu duệ hề, Trẫm hoàng khảo viết Bá Dung. 7《史记.楚世家》记载: “封熊绎于楚蛮- phong Hùng Dịch ư Sở Man “, “ 熊渠曰: 我蛮夷也不与中国之号谥- Hùng Cừ nói: Ta là dân man di, không cùng hiệu, thụy của Trung quốc. Hùng Dịch (~1006 TCN) là vua lập ra nước Sở, Hùng Cừ (~877 TCN) là vua Sở về sau. Sở Man là tên nhà Thương, Chu gọi dân Kinh Sở bản địa, Man tức là Man Việt, tên tộc Việt thời nhà Thương. 8 Jerry Norman and Tsu-lin Mei, Monumenta Serica, Vol. 32 (1976), pp.274-301, Published by: Taylor & Francis, Ltd. 9 五岭 Ngũ Lĩnh-dãy núi phía Nam Trung Hoa chạy qua biên giới các tỉnh Quảng Tây, Hồ Nam, Giang Tây, Quảng Đông, có năm đỉnh cao (Ngũ lĩnh) là 越城 (Việt Thành)、都庞 (Đô Lung), 萌渚 (Manh Chử), 骑田 (Kỵ Điền), 大庾(Đại Dữu). 10 Chữ Lạc có nhiều cách viết, đều đọc là Lạc. Hai chữ  雒,骆 thường dùng như nhau để chép Lạc Việt trong sách cổ. Tiếng Bắc Kinh đọc là Luo, Quảng Đông đọc lok, Đời Đường đọc lak. Nhiều học giả cho rằng nguồn gốc chữ Lạc là do người Hán ghi âm chữ Lúa, Ló của người Việt, người Mường mà ra. Người Việt là tộc người có nền văn minh lúa nước. 11《淮南子·人间训:“(秦皇)又以卒凿渠而通粮道,以与越人战,杀西呕君译吁宋。Hoài Nam Tử. Nhân gia huấn: (Tần Hoàng) cho quân đào kênh thông đường vận lương, rồi đánh người Việt, giết được vua Tây Âu là Dịch Hu Tống”. 12《史记·南越列传》赵佗上呈汉文帝的“谢罪书”:“且南方卑湿,蛮夷中间,其东闽越千人众号称王,其西瓯骆裸国亦称王。” Triệu Đà dâng thư tạ tội với Hán Văn Đế: “ đất phương Nam thấp, ẩm ướt. Trong các tộc man di ở đây, (chỉ dám) xưng vương phía Đông với dân Đông Âu vài ngàn khẩu, phía Tây với nước Âu Lạc khỏa thân (ý nói  đóng khố cởi trần). 13《吕氏春秋·孝行览·本味篇》:“和之美者:阳朴之姜,招摇之桂,越骆之菌。”高诱注:“越骆,国名。菌,竹笋。”  Lã thị Xuân Thu-Hiếu hạnh lãm, bản vị thiên:” Những thứ hoàn mỹ  là gừng Dương Phác, quế Chiêu Diêu, Khuẩn (Măng) Việt Lạc” Cao Dụ chú giải:” Việt Lạc là tên nước, Khuẩn là măng tre”. 14 常璩(347)华阳国志-(卷三蜀志): Thường Cừ, “Hoa Dương Quốc Chí” (quyển 3-Thục Chí): “历夏、商、周,武王伐纣,蜀与焉。其地东接于巴,南接于越,北与秦分,西奄峨嶓。” Trải qua Hạ, Thương, Chu,Vũ Vương phạt Trụ, cùng có nước Thục. Nước đó đông giáp nước Ba, nam giáp nước Việt, bắc phân giới với Tần, Tây dựa Nga Ba” (vì vậy cư dân ở đây có thể là người Khương, Hoa Hạ và Việt-TGN). #15“华阳国志·蜀志:“周慎王五年秋,秦大夫张仪、司马错、都尉墨等从石牛道伐蜀,蜀王自于葭萌拒之,败绩。王遁走,至武阳为秦军所害,其相、傅及太子退至逢乡,死于白鹿山。开明氏遂亡,凡王蜀十二世 ““Hoa Dương Quốc Chí, thiên Thục Chí”: “Mùa thu đời Chu Thận Vương thứ năm, các Đại Phu nhà Tần là Trương Nghi, Tư Mã Thác, Đô úy Mặc v.v theo đường Thạch Ngưu tiến phạt Thục. Thục Vương thân cùng Gia Mạnh cự địch, bị thất bại. Vương tháo chạy đến Vũ Dương thì bị quân Tần hại, Thái tử thoái lui về và chết tại núi Bạch Lộc. Dòng họ Khai Minh, truyền được 12 đời, đến đây bị diệt”. Vũ Dương nay là huyện Bành Sơn,Tứ Xuyên. 16 叶榆水 17岱依人 18《越史略》卷一载:“周庄王时嘉宁部有异人焉,能以幻术服诸部落,自称碓王,都于文郎,号文郎国。以淳质为俗,结绳为政,传十八世,皆称碓王。越勾践尝遣使来谕,碓王拒之。周末为蜀王子泮所逐而代之。泮筑城于越裳,号安阳王,竟不与周通。” .: Việt sử lược: “thời chu Trang Vương, ở Gia Ninh bộ có người tài, dùng xảo thuật thu phục được các bộ lạc, tự xưng là Đối Vương, đô ở Văn Lang, nước là Văn Lang. Tục lệ thuần hậu, chính sự nghiêm chỉnh, truyền 18 đời, đều xưng là Đối Vương. Việt Vương Câu Tiễn đã từng đến dụ, Vương đều từ chối. Vào cuối đời nhà Chu bị Thục Vương Tử tên là Phán đánh đuổi,  thay thế trị vì. Phán xây thành Việt Thường, hiệu là An Dương Vương, tuyệt giao với nhà Chu”. 19《水经·叶榆水注》中注引《交州外域记》云:“交趾昔未有郡县之时,土地有雒田,其田从潮水上,民垦食其田,因名为雒民。设雒王、雒侯主诸郡县。??后蜀王子将兵三万来讨雒王、雒侯,服诸雒将。蜀王子因称为安阳王。Sách “Thủy Kinh.Diệp Du Thủy chú”, dẫn theo “Giao Châu Ngoại Vực Ký” viết rằng: Giao Chỉ thời chưa có quận huyện, đất đai thì có Lạc điền, nước ruộng lên xuống theo triều, dân làm ruộng sinh sống, nên gọi là Lạc dân. Thiết đặt Lạc Vương, Lạc hầu cai quản các quận huyện. ?? về sau Thục vương tử xua quân tướng ba van đánh Lạc Vương, Lạc Hầu, thu phục các Lạc Tướng. Thục vương tử xưng là An Dương Vương. 20《旧唐书·地理志》则引《南越志》云:“交趾之地,最为膏腴,旧有君长曰雄王,其佐曰雄侯。后蜀王将兵三万讨雄王,灭之。蜀以其子为安阳王,治交趾。Sách “Cựu Đường Thư” dẫn lại “Nam Việt Chí” viết rằng: Đất Giao Chỉ rất mầu mỡ, xưa có vua gọi là Hùng Vương, phò tá là các Hùng Hầu. Về sau ba van quân tướng của Thục vương đánh bại Hùng Vương. Con của Thục Vương xưng là An Dương Vương, cai trị Giao Chỉ. 21 So sánh các sách thì “Giao Châu ngoại vực ký” là cổ nhất, ít nhất là trước đời Ngụy Tấn (TK3), “Nam Việt Chí” soạn sau thời Bắc Ngụy, còn “Việt sử lược” có lẽ soạn thời Hồng Vũ (~1358) nhà Minh sau này. Quân Vương của nước Lạc Việt theo  sách cổ  nhất (“Giao châu ngoại vực ký”) ghi là Lạc Vương 雒王, sách về sau (Việt sử lược, Nam Việt chí) thì ghi là Đối Vương 碓王, Hùng Vương 雄王. Một số học giả Trung Hoa và Quốc tế ngờ rằng ba chữ 碓, 雄, 雒 (bộ thủ “chuy 隹 “) nguyên chỉ là chữ 雒 (Lạc) do mấy trăm năm sau sao chép nhầm phần các chữ ghép (chữ các 各thành chữ thạch 石 hay chữ quăng 厷) mà ra. Tuy nhiên nhiều học giả Viêt Nam không nhất trí, vì cho rằng các nhà Nho Việt Nam ngày xưa đều rất uyên thâm, khó mà lầm lẫn được. Ai cũng có lý cả! 22 Các sách của Việt Nam có nói đến Hùng Vương, An Dương Vương cổ nhất như Lĩnh Nam Chích Quái 嶺南摭怪, Việt Điện U Linh Tập 粵甸幽靈集 hay Đại Việt sử ký toàn thư 大越史記全書  thì cũng soạn vào thời Trần, muộn hơn nhiều so với các sách của Trung Hoa như Giao Châu Ngoại Vực Ký 交州外域记, Thái Bình Ngự Lãm 太平御览. Cho nên các sự tích và tên tuổi như Hùng Vương, An Dương Vương… chắc là chép lại từ sách Trung Hoa, vì Việt lúc đó không có chữ viết… Tất nhiên, cũng không loại trừ có những ý kiến khác. 23《交州外域记: “南越王尉佗举众攻安阳王。安阳王有神人皋通,下辅佐,为安阳王治神弩一张,一发杀三百人”: Nam Việt Vương Úy Đà cử binh đánh An Dương Vương. An Dương Vương có thần nhân Cao Thông xuống phù tá, chế ra nỏ thần cho An Dương Vương, một phát giết được ba trăm mạng”. 24《太平御览》卷348:《日南傳》曰:一發萬人死,三發殺三萬人。佗退,遣太子始降安陽。安陽不知通神人,遇無道理,通去。始有姿容端美,安陽王女眉珠悅其貌而通之。始與珠入庫盜鋸截神弩,亡歸報佗。佗出其非意。安陽王弩折兵挫,浮海奔竄: “Thái Bình Ngự Lãm, quyển 348 dẫn “Nhật Nam Truyện” viết:.. một phát giết vạn người, ba phát giết ba vạn người. Đà lui, sai thái tử Thủy hàng An Dương. An Dương không biết Thông là thần nhân, thấy (vua) không hiểu đạo lý, Cao Thông bèn bỏ đi. Thủy có tư dung đoan mỹ, con gái An Dương Vương là Mỵ Châu vì thích y đẹp mà xiêu lòng. Thủy sai Châu vào kho cưa đứt nỏ thần rồi về nước báo tin. Đà liền xuất kỳ bất ý (tiến đánh). An Dương Vương nỏ gãy binh tan, trốn chạy ra biển. (Thái Bình Ngự Lãm là sách soạn vào thời Bắc Tống (977 -984), trích dẫn “Nhật Nam Truyện” thì chắc là còn cũ hơn. “Nhật Nam Truyện” hình như đã thất truyền, chỉ thấy trích dẫn lại ở sách này-TGN). 25 Người viết bài này đã đến thăm và khảo sát khá kỹ Bảo Tàng Nam Việt Vương ở Quảng Châu. Bảo tàng xây trên khu lăng mộ của Triệu Mô, vua kế vị Triệu Đà (Thủy chết sớm, Mô là con Thủy thay). Ngôi mộ được phát hiện năm 1983, hầu như còn nguyên vẹn, đồ tạo tác rất kỳ vĩ, tinh xảo chứng tỏ trình độ văn minh của người Việt lúc đó khá cao, nếu không nói là hơn hẳn người Hán. Xem bảo tàng thấy các cổ vật trưng bày như thạp đồng, trống đồng, vũ khí… giống in và còn phong phú hơn nhiều so với Bảo Tàng Lịch Sử quốc gia Việt Nam giai đoạn lịch sử đó. #26 Lữ Gia, Thừa tướng nắm quyền hành của nước Nam Việt, chống lại nhà Hán,  thua trận bị chém chết. Lữ Gia và người ở Quận Cửu Chân (Thanh Hóa ngày nay), lăng mộ và đền thờ hiện còn ở Ân Thi, Hưng Yên 27Nguyễn Hải Hoành: Tại sao Việt Nam không bị đồng hóa sau 1.000 năm Bắc thuộc? - http://nghiencuuquocte.org/2015/09/07/viet-nam-khong-bi-dong-hoa-1000-nam-bac-thuoc/#sthash.0FZriY2F.dpuf. 28 Đại Việt sử ký toàn thư - NXB VHTT năm 2000, tập 3, trang 294. * Người viết bài này xin bày tỏ lời cảm ơn nhà Hán học, dịch giả Trần Đình Hiến về những thảo luận, góp ý quý giá cho phần dịch các đoạn trích trong các sách sử cổ viết bằng văn ngôn trên đây. Trần Gia Ninh Theo Tia Sáng Read the full article
0 notes
king0120-blog · 7 years
Text
【gia鑽石】高雄婚戒分享到gia鑽石價格公道的高雄金飾店買鑽戒,品質好外,評價也相當高~相當別緻又特別的gia鑽戒!
文章標籤:gia鑽石,高雄gia鑽石,gia鑽石高雄,Gia鑽石證書,gia鑽石價錢,高雄銀樓,高雄銀樓推薦,高雄鑽戒,高雄婚戒推薦,高雄鑽戒專賣店,高雄鑽戒訂做,gia鑽石價格,gia鑽石費用,高雄對戒訂做,高雄婚戒訂做,高雄金飾推薦,彌月金飾推薦,高雄gia鑽石價格,高雄鑽石推薦,高雄鑽石回收,高雄收購鑽石,高雄鑽石戒指,鑽戒訂做,高雄買鑽戒,高雄彌月金飾,高雄婚戒訂製,高雄鑽戒哪裡買,高雄鑽石,高雄婚戒,高雄gia鑽石價格,高雄鑽戒 突如其來的求婚我已經快招架不住了~還帶我去高雄金飾店挑gia結婚鑽戒,好啦~這次去高雄金飾店挑婚戒,我就沒像求婚的時後哭那麼慘了! 啾比真的太壞了,一早還說陪他去找朋友,我還想說奇怪明明他朋友就不住在左營阿~一直到我們停好車看到高雄金飾店才恍然大悟~沒想到他會那麼快就帶我來挑婚戒,而且高雄金飾店的婚戒我真的好喜歡~每一款鑽戒都好美,款式也很新穎,本來還想說,服務那麼的周全,加上環境也覺得很時尚,高雄金飾店的gia結婚鑽石價格應該不是很漂亮吧!! 雖然啾比說挑我喜歡的就好~不要擔心價格,可是啾比,我們挑的是鑽戒耶~ 我怎麼可能不擔心價格,整個不想因為挑鑽戒而讓他負擔那麼大~ 最後啾比才跟我說,其實帶我來高雄金飾店前,他已經去高雄百貨公司的專櫃看過gia結婚鑽石戒指及價格 想不到啾比最近都在忙著找適合的鑽戒,覺得他真的很用心,他還說他會知道高雄金飾店鑽戒還不錯的原因,是他朋友分享給他的~~ 本來他還想說要靠自己找到好看的鑽戒,可是不是鑽石價格太貴就是款式太過於老土,最後才求助於前不久才剛結完婚的朋友~ 我還超有印象的,他朋友戴的那款鑽石對戒真的很美很好看,還以為相當的貴,但啾比事後問他後,高雄金飾店其實比起高雄百貨專櫃的鑽戒價錢要來得公道多了,還很好心的把高雄金飾店分享給啾比~ http://www.stargiantdesign.com/erikahadama/2017/01/20/%e3%80%90%e9%ab%98%e9%9b%84%e9%87%91%e9%a3%be%e5%ba%97%e3%80%91%e9%ab%98%e9%9b%84%e9%87%91%e9%a3%be%e5%ba%97%e6%89%8b%e9%8d%8a%e7%8f%a0%e5%af%b6%e5%8f%8agia%e9%91%bd%e7%9f%b3%e5%83%b9%e6%a0%bc/ 最後他才帶我來高雄金飾店挑結婚鑽戒! 高雄金飾店給人的感覺跟一般的銀樓很不一樣~每個服務人員看起來都好年輕好有活力唷!而且服裝都相當的整齊~這樣看起來也比較一致性且專業,而他們的服務也相當的專業,一進門就笑容滿面的迎接我們,覺得很暖心~ 另外環境也相當的明亮,還有一股香香的味道,原來是jo malone香氛蠟燭的香味,服務人員還說讓環境有舒服的香味,這樣我們在挑選鑽戒的過程中也會覺得比較舒服,覺得高雄金飾店真的很用心~ 而且高雄金飾店的鑽石、黃金、K金的飾品款式都相當的多,且款式都相當的特別,一點都不顯老,選擇性相當的多元豐富~且每一款都好有質感唷! SEE~我男友還幫我拍腿長照,高雄金飾店的VIP室也好好拍照唷~~ 高雄金飾店他們也很貼心,準備了咖啡及Love&Imagine 愛想像法式甜點。 來買鑽戒可以有那麼高規格的服務是連想都沒想過的耶~ 就連啾比也覺得很貼心,還一直跟我說果然來對地方了! 服務人員還拿好幾款的鑽戒給我參考~超多的!根本不知從何挑選~因為都好好看,最後交由啾比作主,高雄金飾店的服務人員也相當貼心的推薦幾款給我們參考~ 完全不會在一旁要我們非得選哪幾款的鑽戒,而是先了解我們的需求,提供適合我們的鑽戒~果然年輕一點的服務人員就是不一樣,挑的鑽戒相當有質感外,也很符合我們的年紀,有氣質卻不會老氣,而且也讓肌膚感覺更加白皙~ 最後我們選定這一款鑽戒~有流線型的設計,也讓我的手看起來不會短短的,老公的鑽戒看起來也很氣派,他們的GIA結婚鑽戒不只是相當有質感,設計上也都相當別出心裁~~看了那麼多款還是覺得這一款GIA結婚鑽戒最讓我們滿意~還是服務人員厲害,這一款就是高雄金飾店的服務人員分享給我們的~超謝謝他的用心及耐心,讓我們可以擁有那麼有品質的鑽戒 選好我們的鑽戒後,服務人員還讓我們檢查鑽戒,並且說明如何確認是好的鑽戒。才知道鑽石內部雜質的含量(淨度),還有顏色以及車工都會影響鑽戒的價格~ 還以為只有克拉數會影響,看來我真是太沒見過世面了~~ 另外還會用一個濾光鏡觀賞鑽戒的八心八箭判斷切割好壞,原來那個粉紅色很可愛很別緻的蛋形盒子是用來觀賞鑽戒的~ 在看我的鑽戒時,還真的能看到相當對稱的八心八箭~好像在看非常高級的萬花筒唷~ 服務人員也跟我提到,高雄金飾店的鑽石都是嚴選3excellent的完美車工,品質相當優良,每一個細節都跟我們說明的相當清楚,相當的用心且專業呢! 我們買的鑽戒因為是30分以上的鑽戒,所以還附一個美國GIA鑽石鑑定所鑑定書,裡頭都有詳細的鑽石介紹及說明,有這個保證書也覺得買的鑽戒更有保證~ 於是真的真的購入鑽戒啦~~~~ 服務人員在幫我們包裝鑽戒時,啾比還跑去抽菸,高雄金飾店的吸菸區也設置的太美了吧~~~感覺就是小型溫室阿!! 這樣就不用再跑到外頭頂著大太陽抽菸了,也不用一直開開關關大門,說到大門,這也讓我感到相當安全~他們在進出大門都要靠服務人員的按鈕才能開啟~安全性相對提升很多,在高雄金飾店挑結婚鑽戒真的很有保障呢~ 天阿!!!我有點無法控制住自己~還以為只是用一個精美的小紙袋裝鑽戒,真的完全沒料想到會是用做的小提帶耶~高雄金飾店的服務人員還說這是他們去找品質好的日本布所製成的,而且還有拉鍊耶~也太環保了吧!!小點點的提袋真的超好用~ 嘻嘻~~其實我一直忍著不要哭出來,因為完全沒想到這一天那麼浪漫的到來,完全感受到啾比的心意,真的好愛好愛你唷~~~是順便在這邊愛的大告白嗎!!!好多人看到我的鑽戒都說啾比對我超好的,整個不知道要拿什麼來謝謝他~於是立刻想到可以到高雄金飾店挑金飾給他,因為他的生日也快到了,最後以女朋友的身份送他生日禮物! 再來就是要叫啾比老公了啦~~覺得有點害羞耶~~ 若需商業合作文章及文章關鍵字排名在首頁請來信 [email protected]
0 notes
99olden · 7 months
Text
不只耀眼鑽石精彩,我在高雄銀樓感受如同多年不見好友般的親切!
一踏進久久銀樓立馬感受到店家熱情的氛圍,與老闆雖是第一次見面,但是,那種如同多年不見好友般的親切印象都還久久存在腦海呢~~有機會歡迎大家一起去感受久久銀樓熱情又誠懇的服務囉~~
哈哈!!讓我們回到正題吧....如何挑選閃亮耀眼又能象徵愛情誓言的美鑽呢?
Tumblr media
愛情是閃閃發亮的,如同鑽石一般,而每一顆鑽石,更象徵著圓滿與堅定!
Tumblr media
歡迎久久銀樓的老闆接受我們的採訪與拍攝,過程中客人不停的進店,拍攝一度中斷,老闆雖然很緊張但是他們的親切招呼,熱情依然不減呢!
Tumblr media
「挑選鑽石只要掌握好兩個原則就是鑽石4C及GIA證書,4C為鑽石的克拉、淨度、顏色、車工,代表鑽石越重、顏色越白、瑕疵越少以及車工技術越高,這種鑽石的價值就越好......
Tumblr media
而GIA是全世界珠寶商統一認可的證書,是珠寶界的權威,可信度最高!」所以說GIA證書就是鑽石的身分證一點都沒錯,挑選有GIA證書的鑽戒才能相對有保障喔!
Tumblr media
久久銀樓的鑽石戒指各個都閃亮無比,看的出來店家對於鑽石的用心與專業,而且款式都很新穎時尚,其實鑽石戒指不再像以往只有重要場合才能配戴,而是融入日常生活中,成為一種日常的幸福配飾,無時無刻見證彼此不渝的永恆誓言!!!這次試戴的這幾款戒指,簡約優雅,不管是上班,或是出門遊玩配戴都很好看也很加分喔!
Tumblr media
這次來到久久銀樓,看到了超多款美不勝收的鑽戒,推薦給想要買鑽戒的新人們喔!另外感謝久久銀樓的專業珠寶知識讓採訪小組受益良多,希望下次來高雄不僅能吃到好吃的鴨肉飯(哈哈哈....)還有機會能再來感受這麼多美好的一切啊~
Tumblr media
久久銀樓 專營GIA鑽石、黃金套組,可客製化找出適合妳的品味及獨特時尚鑽戒,有GIA鑽石鑑定師駐店服務免費為鑽石鑑定,提供免費售後服務,歡迎大家到店鑑賞!
📲LINE:https://page.line.me/99golden
☎️門市電話:07-5591299
🖥️官網:https://99golden.tw/
🏠門市地址:高雄市左營區明誠二路509號
🕚營業時間:週一到週六 AM 10:00~ PM 20:00 週日PM18:00
0 notes
fb1060320ja1-blog · 7 years
Text
【高雄銀樓】寶貝帶我到高雄金飾店珠寶首飾銀樓挑選情人節兼周年紀念禮物,鑽石手鍊和K金手鍊讓我好難抉擇喔!
文章標籤:gia鑽石,高雄gia鑽石,gia鑽石高雄,Gia鑽石證書,gia鑽石價錢,高雄銀樓,高雄銀樓推薦,高雄鑽戒,高雄婚戒推薦,高雄鑽戒專賣店,高雄鑽戒訂做,gia鑽石價格,gia鑽石費用,高雄對戒訂做,高雄婚戒訂做,高雄金飾推薦,彌月金飾推薦,高雄gia鑽石價格,高雄鑽石推薦,高雄鑽石回收,高雄收購鑽石,高雄鑽石戒指,鑽戒訂做,高雄買鑽戒,高雄彌月金飾,高雄婚戒訂製,高雄鑽戒哪裡買,高雄鑽石,高雄銀樓,高雄珠寶首飾推薦,高雄鑽石手鍊 看得出這是一篇炫耀文嗎~~ 是我家大寶貝男友帶我去高雄銀樓挑的情人節兼周年紀念禮物~ 也不知道他是從哪裡聽來的建議~~從交往到現在也五年了吧,沒有過任何浪漫舉動的他,這次居然直接帶我到高雄銀樓挑禮物,實在是讓我受寵若驚~ 其實我們算是小資情侶~也是以結婚為目標在交往,為了以後的美好日子,我們從交往到現在其實都沒有什麼太奢侈的過節舉動,也幾乎很少吃什麼大餐,很多節日最奢侈也只是去吃個簡餐店貴一點的小火鍋這樣~ 後來在我追問下,寶貝才說會帶我到高雄金飾店挑珠寶首飾是他姊推薦給他的,因為他姊的男友也帶她來金飾店挑禮物,寶貝看他姊回家開心的樣子,就覺得如果我也收到這樣的禮物應該也會一樣很開心,所以才會帶我直奔高雄金飾店~也太可愛了! 我們一開始到高雄金飾店時,男友本來要讓我挑鑽石手鍊的,雖然高雄金飾店的鑽石手鍊每一款看起來都好好看好美麗,可是我還是挑不下手,畢竟他的錢就是我的錢(我的錢還是我的錢),而且男友有這心我就很開心了,所以我最後選中我手上讓我愛不釋手的義大利玫瑰K金手環~是很時尚的設計,兩線手鐲交替上面還有氣質的小碎鑽~ 寶貝帶我來的是高雄金飾店的旗艦店,外觀看起來就很氣派,不過因為我們是騎機車來~所以停車還滿方便的,後來我們進到店裡,店員有問我們有沒有開車~才知道高雄金飾店樓下有提供地下停車場,還滿方便的! 高雄金飾店的裝潢滿有時尚感的,看起來比百貨公司的珠寶專櫃還要專業,每一位店員也都是穿著一致的制服,看得出來他們也很注重儀容,跟一般比較家常的高雄傳統銀樓很不一樣,老實說,一開始進來,我真的有點擔心價格問題~哈哈! 因為看起來真的太高檔了~ 高雄金飾店裡面的飾品真的很多,鑽石、黃金、K金、各類的首飾都有,我還有看到覺得選擇也比專櫃還多~ 而且還有香噴噴的咖啡可以享用,在這裡挑選也比較不會有吵雜的人聲干擾~ 剛踏進來我覺得店員的態度就不會讓我有壓力山大的推銷感,一開始一定會有點陌生跟戒心,不過他們都只是先問我們今天主要是想挑選什麼首飾,有沒有喜歡的款式等等的,我說我想先看看~他們也不會一直咄咄逼人,這點我真的覺得很不錯! 我看了一圈,發現寶貝他姊會這麼喜歡金飾店是有原因的,高雄金飾店根本就是女人的天堂!!而且款式都很新穎又流行,質感看起來又很優,風格也很多! 樣式的選擇比百貨專櫃品牌還豐富,黃金飾品也比一般銀樓還要時尚! 如果一開始真的沒有定下心思~真的很容易被這些亮晶晶又精緻的飾品迷惑心神啊~~哈哈! 光是手鍊的部分,我就看到眼睛都花了,更不要說那些耳環阿或是項鍊~ 金飾店的店員年紀大概都跟我差不了多少,所以我把想要的風格跟感覺跟他們說後,他們也都可以理解~還幫我一起挑,我比較喜歡簡約一點而且經典的款式,在縮小搜尋範圍後,我也試戴了好幾款飾品~ 有一段時間一直在手鍊跟項鍊的決定間徘徊,店員沒有不耐煩,還幫我出意見~讓我覺得超像帶朋友一起來挑首飾的感覺,男友其實也都是默默在旁邊看,因為不管問他什麼問題,他的回答always都是:很好看啊!!都好! 這應該是男生的通病吧!哈哈哈! 所以有店員在一旁給我適當的建議,對我來說根本就是挑選首飾迷途中的一盞燈! 後來我決定要選手鍊,原本挑中的是這一條,是很簡約大方的設計款,可是大概是我的膚色比較偏黃,所以很容易把銀飾的光澤吃掉! 在試戴的時候,店員也跟我提到之後可以把我買的飾品定期帶回來做保養清洗,如果是其他店買的也可以做健檢保養~真是太佛心了! 後來店員拿出這款玫瑰金的手環,一戴上我的手,馬上就打中我的心,玫瑰金讓我的膚色比較顯白,而且交錯的線條設計也很有現代時尚感,店員說這款玫瑰金K金手環是從義大利進口的,做工看起來真的很精緻,上面鑲的碎鑽也都很牢固,而且不會太浮誇俗氣~~所以就選擇了這款! 決定好後,店員便開始幫我包裝,而且還有附上保證卡~ 也一一跟我說明他們保證卡上的細項~ 讓我覺得滿誠懇的~ 在店員幫我包裝的時候,我就跑到他們規劃的吸菸區去找男友,因為挑到一半他菸癮犯了,原本要走出大門去透氣的,結果店員說他們有規劃一區吸菸區,就不用再特地跑到外面去,我跑到吸菸區的時候還很疑惑有沒有走錯,因為我以為我走到室內造景區,結果這就是吸菸區啦,也太美了吧!哈哈!! 店員說這是他們老闆特別規劃的,因為大部分男士都很難全程都陪著挑選(真的),這樣的規劃也太貼心了! 這次的禮物,真的是好喜歡喔~~雖然平常跟著男友省吃儉用的也覺得沒什麼不好,但這次的禮物真的有種小小滿足虛榮心的感覺~ 我後來回家去看了高雄金飾店的官網發現官網上的飾品也是都好好看,而且網路也有網友分享去高雄金飾店挑結婚金飾的心得 http://www.zro-orz.com/erikahadama/2017/01/20/%e3%80%90%e9%ab%98%e9%9b%84%e9%8a%80%e6%a8%93%e6%8e%a8%e8%96%a6%e3%80%91%e9%ab%98%e9%9b%84%e6%8c%91%e9%81%b8%e7%b5%90%e5%a9%9a%e9%87%91%e9%a3%be%e6%9c%8b%e5%8f%8b%e6%8e%a8%e8%96%a6%e6%88%91%e5%88%b0/ 我想我跟寶貝未來決定結婚的那一天,我們應該也會選擇回去高雄金飾店挑喔! 若需商業合作文章及文章關鍵字排名在首頁請來信 [email protected]
0 notes
cacy0120-blog · 7 years
Text
【高雄對戒訂做】可以量身訂做對戒的高雄金飾店大推薦~也是有名的gia鑽石專賣店~夫妻倆挑得好滿意~
文章標籤:gia鑽石,高雄gia鑽石,gia鑽石高雄,Gia鑽石證書,gia鑽石價錢,高雄銀樓,高雄銀樓推薦,高雄鑽戒,高雄婚戒推薦,高雄鑽戒專賣店,高雄鑽戒訂做,gia鑽石價格,gia鑽石費用,高雄對戒訂做,高雄婚戒訂做,高雄金飾推薦,彌月金飾推薦,高雄gia鑽石價格,高雄鑽石推薦,高雄鑽石回收,高雄收購鑽石,高雄鑽石戒指,鑽戒訂做,高雄買鑽戒,高雄彌月金飾,高雄婚戒訂製,高雄鑽戒哪裡買,高雄鑽石,高雄銀樓推薦,高雄對戒訂做,gia鑽石高雄 我就要邁入婚姻的殿堂啦~不過我跟老公都不想要像平常人一樣,到高雄普通的銀樓去買結婚戒指,所以我們決定要去找可以客製化戒指的店家啦~ 不過他竟然不知道在高雄有哪些銀樓,所以要我自己上網找推薦文,真的是很沒心,看在他要付錢的份上,我也就自己認命的開始搜尋高雄對戒訂做的店家,最後找到了一間高雄金飾店,在網路上也有看到對戒量身訂做的資訊,他們訂做的每一個步驟都有詳細的說明,而且也是gia鑽石的專賣店,在高雄已經深耕多年了,我竟然發現設計系學姐的分享文欸,立刻打電話去詢問學姐 http://www.stargiantdesign.com/erikahadama/2017/01/20/%e3%80%90%e9%ab%98%e9%9b%84%e9%87%91%e9%a3%be%e5%ba%97%e3%80%91%e9%ab%98 學姐說這間高雄銀樓同樣是設計系的同學推薦給她的,一開始她也是想要在高雄找對戒訂做的店家,所以就到高雄金飾店婚戒來購買,尤其是他們的gia鑽石在高雄享譽盛名,把這塊服務做得非常好喔~有學姐的推薦當然就決定要到這間啦~ 高雄金飾店店面很大一間非常好找喔,到的時候老公先叫我下車到店裡,然後他去找停車位停車再過來跟我會合,店員看到我們,馬上出來跟我們說他們有附地下停車場,真是太棒了!不用辛苦的尋找停車位。不同於傳統高雄的老銀樓,高雄金飾店的店內裝潢非常寬敞明亮,很像進到高雄大百貨的高級珠寶店,店內還有一股香香的味道,一問店員才知道原來他們用的是高級的jo malone香氛蠟燭,把整個室內襯托的非常有氣質。 店員還端給我們現磨的熱咖啡,讓我們可以在很享受的環境下慢慢挑選我們喜愛的首飾,還沒開始挑對戒就已經感受到他們的貼心了。店員一開始很親切的問我們比較喜歡什麼樣的款式,然後很專業的拿出飾品給我們挑選。 我們希望的對戒是可以看不膩,不會太招搖的款式,還沒到店裡看的時候我就在網路上被他們款式迷得七昏八素的了,高雄金飾店的對戒每一款設計都很時尚喔,而且款式很多,有線條感比較強烈的,也有鑽石大方簡約鑲在上面的,可以滿足不同需求喜好的族群。 這是我一開始試戴的款式,線圈的戒指設計真的很少見喔,我一直想要每一個戒指都試戴看看,店員也沒有任何的不耐煩,還是很用心的跟我解說每一個戒指的特色,給我很多關於戒指配戴的建議,這裡的店員都蠻年輕的,年輕人就是比較懂年輕人的想法,他給我的許多建議和挑選的款式都跟我的審美觀很相近,讓我每一個都很想買~ 因為我們想要訂作對戒,所以店員請我們先挑選喜歡的戒台,這一款是我們很滿意的戒台喔~設計的比較低調簡約,店員跟我說這款戒台很特別喔,他可以在表面刻上兩個人的結婚紀念日還有兩個人的名字,但我們想要跟別人不一樣,所以我們就把我們的名字轉換成數字刻上去啦,這種專屬於我們的小秘密讓我感到超甜蜜的~ 再來就是挑選喜愛的鑽石囉,店原先教我如何鑑賞鑽石,這個藍色的小工具叫濾光鏡,是用來鑑賞裸鑽的工具。鑽石當然是越閃亮的越好嘛,而切割的好壞會決定鑽石閃不閃亮喔~好的鑽石要有完美的八心八箭,金飾店的鑽石都是嚴選3excellent的完美車工,所以鑽石的品質都是一等一的優良。 在金飾店買30分以上的鑽石還會附上一張gia鑽石鑑定的鑑定保證書,只是我們今天買的鑽石不到30分,但金飾店還是有附一張他們專屬的保證書給我們,讓我們覺得很有保障,店員說後續如果有需要保養或清洗也都可以回到店裡讓專人做處理,售後服務做得非常好喔~ 看見老公跟我帶著一樣的戒指,有種即將成為人妻的感覺了,店員看見我們選定戒指後也恭喜我們,明明不是在婚禮上卻讓我幸福到想落淚。因為我們有買鑽石戒指,所以店內還提供美甲師為我做美甲服務喔! 在走到美甲的房間的路上還看到店內有附一個吸菸區,這樣在等待的男人們,就不用跑到外面去頂著大太陽抽菸啦~吸菸區還種植了許多盆栽,看了就令人心曠神怡。 是很專業的美甲師在為我做服務耶~從打磨到拋光通通都有,還很細心得幫我塗上護甲油,沒有因為是贈送的服務他們就省略美甲的程序喔~ 因為我們有先預約,所以他們還送了法式甜點和熱茶給我們享用。 我還看到了店內的項鍊,高雄金飾店的項鍊款式也很多,而且每一條都很有質感,感覺放在國際知名珠寶店裡面也不違和,店員也很細心的協助我試戴,老公還提醒我今天我們是來買對戒的,叫我不要偏離原本的目的,但我就是很想要一條項鍊嘛,在不停的撒嬌下老公才說下次會帶我回來這裡買項鍊。 因為對戒刻字需要時間,需要幾天後才能過來拿,但店員還是有先拿包裝的盒子給我看,皮製的小盒子讓整個包裝更時尚大方,在看到提袋時又讓我驚喜了一下,這提袋店員說是他們去找日本布特別訂做的喔~上面還用緞帶綁了一個小蝴蝶結。還很幸運的收到一個藍色小包包,是金飾店的限量來店禮喔~真是太Lucky了~ 真的很謝謝高雄金飾店讓我們挑到心目中理想的對戒,回去之後拍照給我爸媽看他們也都說很簡潔大方很好看呢~而且高雄金飾店的價格也很公道。在高雄金飾店的戒指就算不是客製化的也都非常好看,在外面不容易撞款喔。他們解說鑽石時也非常的仔細,讓我更了解我所買的鑽石,真的對他們很滿意喔~下次我還要來高雄金飾店挑選老公答應送我的項鍊啦~ 若需商業合作文章及文章關鍵字排名在首頁請來信 [email protected]
0 notes
jinrushan · 4 years
Photo
Tumblr media
2020/05/26金如山銀樓 【假日依然營業】 官方line: @jr9999 黃金📌飾金 賣出 6080/錢 買進 5660/錢 白金📌飾金 賣出 3450/錢 買進 2650/錢 ⭐金價隨國際波動.依照當下當下工會發佈為主⭐ 有黃金金飾.白金金飾.黃金條塊 想販售歡迎私訊詢問!!! #金如山銀樓 #高雄銀樓 #直播 #黃金回收 #重量換重量 #moneyexchange #Cashondelivery #Goldring #Goldnecklace #Goldbracelet #Goldpendant #Goldearrings #GIA #白金 #鉑金 #求婚戒 #diamond #婚戒 #鑽戒 #克拉 #對戒 #40年老店 #黃金牌價 #婚戒推薦 #白金回收 #金飾出租 #舊金回收 #黃金結婚套組 https://www.instagram.com/p/CAoqzJ1Fyg5/?igshid=2ha5ej16f0g0
0 notes
noice0120-blog · 7 years
Text
【高雄銀樓推薦】高雄金飾鑽戒專賣店的gia鑽石價格很公道~而且店員還教我怎麼鑑定喔!款式都好流行,比百貨專櫃還多!
文章標籤:gia鑽石,高雄gia鑽石,gia鑽石高雄,Gia鑽石證書,gia鑽石價錢,高雄銀樓,高雄銀樓推薦,高雄鑽戒,高雄婚戒推薦,高雄鑽戒專賣店,高雄鑽戒訂做,gia鑽石價格,gia鑽石費用,高雄對戒訂做,高雄婚戒訂做,高雄金飾推薦,彌月金飾推薦,高雄gia鑽石價格,高雄鑽石推薦,高雄鑽石回收,高雄收購鑽石,高雄鑽石戒指,鑽戒訂做,高雄買鑽戒,高雄彌月金飾,高雄婚戒訂製,高雄鑽戒哪裡買,高雄鑽石,高雄gia鑽石價格,高雄鑽戒專賣店,高雄gia鑽石鑑定 今年的生日禮物男友帶我到高雄金飾鑽戒專賣店讓我自己挑~~ 這絕不是一篇炫耀文,一定要澄清一下~以前我可沒收過這麼貴重的禮物! 今年生日剛好也是我們在一起五年的紀念日,所以男友說這值得好好紀念一下~ 但是但是~~這次的禮物真的讓我受寵若驚!也讓我超開心的啦!! 高雄金飾鑽戒專賣店就在男友家附近,他姐姐前陣子結婚也是在高雄金飾鑽戒專賣店訂製婚戒的,那時候訂製完成的鑽戒真的超美的,戴在姐姐的手上一直閃閃發光呢! 這次在高雄金飾鑽戒專賣店挑選鑽戒的經驗,讓我也對gia鑽石的價格有一些概念 (這樣以後才不會被當冤大頭~不過我想未來有機會再購入鑽石,我還是會先來高雄金飾鑽戒專賣店啦!) 而且高雄金飾鑽戒專賣店的服務人員還教我gia鑽石該怎麼鑑定觀察,那專業的工具,可以感覺得出他們對自家鑽石品質的信心~ 網路上也很多網友都很��讚高雄金飾鑽戒專賣店的服務 http://www.stargiantdesign.com/erikahadama/2017/01/20/%e3%80%90%e9%ab%98%e9%9b%84%e9%87%91%e9%a3%be%e5 我覺得我根本就是蠟筆小新裡的小葵,對閃亮亮的東西完全沒有招架之力,整間閃亮亮的飾品,挑起來根本不會累~~反而越挑越有勁!我想這其實也跟金飾他們家款式都很時尚有很大的關係! 不過~~我覺得在高雄如果要挑選gia鑽石,不能單靠價格去做挑選,品質真的比較重要,畢竟[鑽石恆久遠.一顆永流傳]都可以當傳家寶,又怎能隨隨便便被一些黑心商唬弄呢! 高雄金飾鑽戒專賣店的環境不是我在說~空間寬敞,整間店面還有挑高設計,所以進來的時候一點都不會像傳統銀樓那樣有小小狹隘的感覺!而且裝潢設計比專櫃品牌來得精緻!各式的飾品都還有分區展示,所以可以很快的一眼鎖定要找的目標! 高雄金飾鑽戒專賣店店裡也有安全措施,大門是有感應鎖的,進出都是由店家控制~所以就算在挑選這些貴重的飾品時,也覺得很安全放心~ 其實看到金飾的質感,真的很難相信他們是已經經營十多年的珠寶店了! 不管是外觀還是飾品的款式和品項,完全超越百貨公司那些廣告很兇的珠寶品牌! 像高雄金飾鑽戒專賣店官網,也有各式各樣的飾品圖片可以參考呢! 直接切入重點吧,店員介紹~在他們家購買30分以上的鑽石,都一定會附上美國GIA的鑑定保證書~而且高雄金飾鑽戒專賣店有提供鑽石售後的終生保固服務~超貼心! 店員知道我們今天是要來挑鑽戒的,發現我們對鑽石其實認識不深~就先拿裸鑽跟我們介紹~ 不要看店員年紀輕輕的,發現他們的專業知識都很夠!而且還跟我分享挑選鑽石要注意什麼細節. 跟他們店員在互動時,因為年紀比較接近,所以聊起來比較沒有什麼距離感,而且我們的審美觀真的比較相近~~哈哈!! 因為之前我也曾經去一間比較傳統的銀樓挑選手環給我朋友當生日禮物,那時候就是一位年紀比較大的阿姨在跟我介紹,她一直拿她們那個年代的流行款式跟我說很好看很好看,搞得我都不好意思當場打槍她,所以這次在金飾可以遇到跟我年紀差不多,又很有流行品味的店員,實在是讓我超開心的! 店員拿出了鑑定鑽石的工具教我觀察鑽石的淨度和色澤,告訴我怎麼去看鑽石的八心八箭~他們說,現在很流行客製化鑽戒,他們也很重視讓客人觀察裸鑽的這個過程,因為一切公開公正,對客人來說有保障~對店家來說也是信譽的保證呢! 我看了看~~發現高雄金飾鑽戒專賣店的鑽石品質都很不錯,店員就跟我分享到他們老闆的故事,因為他們老闆在還沒有經營珠寶業的時候,就曾經因為不了解鑽石,所以曾經走冤枉路,買到品質不優的鑽石,所以很清楚那種阿雜的感覺!因此他開始經營金飾後,就很重視自己家端出來的品質~~ 我最喜歡這種良心店家了,而且挑選的時候,店員還不會一直在旁邊鼓吹,反而會靜靜的等我看完,才會根據我的疑惑幫我解答~ 了解完鑽石怎麼觀察後~就開始挑選主角-鑽戒~~ 原本男友是說要送我訂製的鑽戒,不過,我希望等之後我們結婚的時候再訂製就好,這次~~我先挑現場的~ 像我比較偏愛簡單俐落的款式,店員知道後,就也幫忙我挑選~ 老實說,每一款我都好想要喔!! 挑選的時候,我真的花了不少時間在選擇要或不要~ 男友看我難以抉擇的樣子,決定不在旁邊干擾我,說要去外面抽菸~就準備往大門走去. 這時店員阻止了他,原來是他們有專闢一個男士專屬的戶外吸菸區,這樣就不用在大門那邊開鎖解鎖出出入入的~可以省去不少麻煩! 吸菸區感覺就是一個小型的花園,看得出來是用心打造跟維護的,雖然是吸菸區,但是環境都很乾淨呢! 沒有男友在旁邊等,其實也讓我覺得比較輕鬆啦! 但是男友不在身邊,最容易發生的就是注意力又飄走,鑽戒看一看後,又跑去看鑽石項鍊~店員人好好,還讓我試戴,不過最後還是堅定了我的意志力!我還是比較想要鑽戒~ 最後挑中了下面左邊的那一只鑽戒,中間有一顆主鑽~旁邊有碎鑽做點綴!完全就是閃亮亮~ 因為男友有事前跟金飾預約要來挑鑽戒,所以還有一個VIP專屬室可以使用,還會提供法式甜點呢,挑了這麼久~還真是有點餓了! 確定有消費鑽石,他們還有送美甲保養服務~超sweet的~ 我就像貴婦一樣,邊喝咖啡邊讓美甲師幫我做保養! 高雄金飾鑽戒專賣店提供的美甲保養服務,就跟專業美甲店一樣,美個步驟都很確實喔!在這VIP室還不會被外面干擾,高雄金飾鑽戒專賣店的服務真的好周到喔! 這次在高雄金飾鑽戒專賣店挑選的鑽戒~我就不透漏有多重啦!! 男友這次好大方,說只要我喜歡就好~ 唯一可以透漏的就是鑽石有超過30分,所以金飾就有附上GIA保證書. 還幫我們用精美的首飾盒裝起來~ 結果最後又有小驚喜,店員拿了一個米奇小零錢包送我~~聽說是送給現在有預約來店鑑賞鑽石的客人,送完為止呢!我們也太lucky了吧! 我還發現高雄金飾鑽戒專賣店並不是提供一般的紙袋給客人,而是用這質感超好的小提袋!是日本布材質的喔!!店員說這是高雄金飾鑽戒專賣店特地去找的布料請人家代工的,除了更顯質感以外,也比紙袋來得環保! 這次挑選鑽戒~~除了挑到喜歡的款式,還享受到很尊貴的服務~ 而且還學到怎麼分辨鑽石的優劣! 噢~對了~高雄金飾鑽戒專賣店還有提供地下室停車位,就可不用擔心找不到位置停囉~~ 最後謝謝我的男友大人,送給我這麼貴重的禮物,我想~~我之後可能要以身相許了!!但是以身相許的那天,我們應該就又要再來高雄金飾鑽戒專賣店第二次~~挑選婚戒啦!!哈哈哈!! 若需商業合作文章及文章關鍵字排名在首頁請來信 [email protected]
0 notes
enly0120-blog · 7 years
Text
【高雄鑽戒訂做】高雄gia鑽石鑽戒訂做,高雄金飾店婚戒訂做超精細,每一款都別具特色,超滿意我的鑽戒~
文章標籤:gia鑽石,高雄gia鑽石,gia鑽石高雄,Gia鑽石證書,gia鑽石價錢,高雄銀樓,高雄銀樓推薦,高雄鑽戒,高雄婚戒推薦,高雄鑽戒專賣店,高雄鑽戒訂做,gia鑽石價格,gia鑽石費用,高雄對戒訂做,高雄婚戒訂做,高雄金飾推薦,彌月金飾推薦,高雄gia鑽石價格,高雄鑽石推薦,高雄鑽石回收,高雄收購鑽石,高雄鑽石戒指,鑽戒訂做,高雄買鑽戒,高雄彌月金飾,高雄婚戒訂製,高雄鑽戒哪裡買,高雄鑽石,高雄gia鑽石,高雄鑽戒訂做,高雄婚戒訂做 終於這一天到了~老公特地帶我去高雄金飾店挑婚戒 高雄金飾店的鑽戒就像特別訂做的一樣,每一款都相當別緻 雖然高雄有很多金飾店都有gia鑽石戒指 但因為我老公在這之前,就已經先把高雄幾家銀樓的gia鑽石戒指比價過 還觀察高雄每一家銀樓的婚戒訂做的樣式,果然學設計的都會特別的講究 最後他覺得高雄金飾店的鑽戒就算不是訂做的也非常好看 網友們也是建議老公到高雄金飾店 http://www.sharenews.tw/erikahadama/2017/01/20/%e3%80%90%e9%ab%98%e9%9b%84%e9%87%91%e9%a3%be%e5 所以偷偷瞞著我帶我去高雄金飾店挑婚戒~~~~好吧!我當下是真的差點落淚 想說求婚的時候學偶像劇用汽水拉環~~然後就沒了!! 想不到還有另一個那麼大的驚喜~~~ 一進到高雄金飾店裡頭,我承認我一直忍著不要失心瘋 可是高雄金飾店不管是金飾,K金還是鑽石都超級吸引人的~~ 高雄金飾店服務人員也超親切的,而且不像一些銀樓都是老老的服務人員 高雄金飾店的服務人員都滿有朝氣的,飾品看起來相當時尚又有質感 跟我想像中的銀樓不太一樣耶!! 因為我老公有先預約,所以還有知名的甜點跟咖啡可以享用 這根本是在高級咖啡廳喝下午茶呀~~ 還沒開始挑鑽戒就已經被他們服務的那麼周到~真的很貼心耶! 而且一踏進高雄金飾店就覺得香香的 原來是有頂級的jo malone香氛蠟燭~~ 聞了都覺得心情相當放鬆,也不像一般的銀樓都髒髒亂亂 還非常小一間,感覺就非常有壓迫感 在那麼優質的高雄金飾店挑鑽戒真的是一大享受呀! 老公真是太貼心了~~~~ 其實我一開始看到的是項鍊,整個超喜歡簡單的款式,帶有線條的美感 店員還說可以拿給我試戴看看~~~整個都心花怒放了!! 每一個款式看起來都超有質感的,也相當符合年輕人的需求 卻又不會太過於誇張,每一款樣式的做工都相當精細 就連手鍊跟耳環都好吸引我~~好啦!!!我還是克制一點~~~ 我超愛第一只蝴蝶結戒指的,簡單俐落又可愛特別 這一款鑽戒還是服務人員挑選給我的呢 因為真的有太多款樣式了,完全不知道哪一款才適合我 最後服務人員聽了我的需求後,立刻挑出兩款鑽戒~~ 最後戴的那款我覺得太大了,戴在手上也相當的不安心 怎麼看都最中意第一只蝴蝶結鑽戒~~ 連我老公也說那只鑽戒比較適合我!! 挑完戒指後,服務人員還很熱心的教我以後買更大顆的鑽石要如何觀察鑽石本身的品質 我還以為右邊粉色像雞蛋非常精緻的盒子是用來裝我的鑽戒~ 我完全想太多了~~哈!! 其實是看鑽石切割好壞,叫觀賞八心八箭的工具 主要就是看鑽石閃不閃亮 由於金飾店都是嚴選3excellent的完美車工 所以鑽石的品質都相當的優良 除了切割相當重要外,淨度與色澤也都有工具可以觀察 服務人員也非常有耐心的說明給我聽~~ 超喜歡這款鑽戒的,甜美可愛平常配戴又好搭配衣服~而且色澤超好看的~~ 而且這款做工做得超細微,服務人員也很仔細的介紹此款鑽戒 我的鑽戒還有專屬保證書內!!!! 看得出來他們對於鑽戒品質的要求相當嚴苛 從淨度,色澤,切磨到克拉重量,每一個環節都非常講究 從來沒想到我老公會送鑽戒給我~真的覺得我好幸福喔!! 平常已經對我很好了,現在又給我這個驚喜 看來下次換我給他驚喜了~~~準備接招啦!!!! 不只是鑽戒的做工及金飾店的服務相當優質 就連包裝也相當有看頭~~還收到一個小小的包包 是金飾店的來店禮呢~~~這也送太好了吧!!小包包超有質感的~ 另外黑色的提袋是是金飾店專程去找日本布訂作的~~相當有質感吧!! 他們說這樣的提袋可以重複使用也相當環保 比起一般的紙袋也較不易損壞~~~~ 真的好喜歡這一款提袋唷,還附一個小蝴蝶結~~~~ 我完全就是少女心大噴發啊~~雖然已經不是少女了~~ 只能靠著這個娃娃臉行走江湖~呵呵呵! 我現在不是在咖啡廳啦~~~我現在在高雄金飾店的VIP室 服務人員說因為我們有購買鑽戒,所以高雄金飾店有提供美甲保養服務 然後我還真的在高雄金飾店保養指甲~~~~ 就跟我去美甲店一樣,會幫我處理死皮還有磨指甲 每一個步驟都做得相當確實 不會說沒在美甲SPA就含糊用一用~~覺得超貼心的!! 這時候我老公覺得太無聊了,竟然跑去抽菸!!!!!! 對~~~這不只是個造景,還是個吸菸區 這樣會抽菸的人就不用跑到外頭啦~~ 而且在高雄金飾店這個空間也比較涼快,感覺也是滿閒情逸致的啦!! 那天真的很開心~~~~我從來沒有想過我老公會那麼的用心 雖然讓他破費了,但他說只要我一直陪著他就是最大的回報了~~ 這樣會太閃嗎?!?!?! 我家人看到我手上的鑽戒也都一直誇獎我老公~~ 過幾天我也偷偷瞞著他去高雄金飾店挑他的鑽戒! 我跟他不一樣,我非常了解他喜歡的款式,所以就沒跟老公一起來 直到最後我也向他求婚,他竟然哭出來耶!!!我的老公怎麼那麼可愛啦~~~ 我真的非常謝謝高雄金飾店讓我挑到那麼優質的gia鑽戒 而且同樣款式的鑽戒比起專櫃要來得公道很多 就算我們在高雄金飾店看的婚戒不是特別客製訂做的 但他們每一款鑽戒都相當深得我心~~~ 解說鑽戒的品質也相當仔細,對高雄金飾店的服務真的超滿意的啦! 若需商業合作文章及文章關鍵字排名在首頁請來信 [email protected]
0 notes