Tumgik
lcthbao · 17 hours
Text
trước hiên nhà còn kê ba chiếc ghế
một vàng, một đỏ, một màu xanh
anh đi ngang thấy cỏ cao kín lối
trời đương trở tối
kính vỡ, tường rêu, mái dỡ đi rồi
không che chắn nổi một kẻ đã chùn chân.
anh đứng ngó trân trân
tự hỏi chúng mình đang tìm kiếm điều gì trong đời, em nhỉ
một căn nhà phế
chiếc ghế chẳng ai ngồi
êm ấm bỏ đi rồi không ai về thắp lại
chỉ còn trơ lại nỗi hoang vu.
anh mua bao thuốc bên góc ngã tư đường
đốt lên một đầu cho đỡ lạnh
bà già bán thuốc nhìn anh
ý nghĩ vụt qua khiến lòng anh thắt lại
chúng mình là ai giữa xứ này?
những vụ mùa đã qua
những con đường đã xa
chúng mình càng đi tìm càng mất,
em có nhớ anh không
mỗi lúc ngang qua một căn nhà không còn ai đến ở
những giấc mơ không người đến thở
những câu thơ chẳng bao giờ đọc lại
mà anh vẫn viết cho em?
chúng mình - đến ngủ giữa lòng đêm
bước đi trong đời và tiến về cõi chết
đôi khi khắc khoải một ô cửa sáng đèn, một kẻ thức đợi ta
một mái hiên trổ ra tán lá
dăm ba chiếc ghế có kẻ đến ngồi chung
nhưng rồi những giấc mộng không chung
có bao giờ cùng đi được đến cuối
cho nên ghế trống
căn nhà bỏ hoang
trong một buổi chiều tàn trông theo người lữ khách.
1 note · View note
lcthbao · 13 days
Text
đi cùng anh
trên chuyến tàu mùa hạ
lướt qua những bóng hình chốc lạ chốc quen
ngắm vầng dương trên đỉnh đầu chói lọi
của vùng trời xô dạt những đám mây
qua một đêm giấc chẳng thể nào say
những cơn mơ dẫu nát vụn cả rồi
nhắm mắt lại và rồi em sẽ thấy
mọi nỗi đời cay đắng sẽ tan đi.
đi cùng anh trên chuyến tàu mùa hạ
lướt qua những bóng hình chốc lạ chốc quen
ngắm vầng dương trên đỉnh đầu chói lọi
giữa khung trời có đám mây bay
có cơn mưa chẳng thể nào quay lại
những giấc mơ vông viễn tự tuổi nào
theo chuyến tàu xuyên qua miền hạ ấy
những hận thù cũng rục rịch ra đi.
đi cùng anh trên chuyến tàu mùa hạ
lướt qua những bóng hình chốc lạ chốc quen
ta sẽ cách đêm qua ngàn dặm
khi em thì thầm lời giã biệt bên tai.
đi cùng anh trên chuyến tàu mùa hạ
lướt qua những bóng hình chốc lạ chốc quen
đi thật xa và chẳng sợ chi cả
chỉ hít thở thôi và rồi em sẽ thấy
mặc những ô cửa đang nức nở điều chi
thì chuyến tàu vẫn đưa ta xuyên qua vùng mưa phủ
đi càng xa chân trời càng sáng rỡ
bao chuyện đời cũng sáng tỏ theo ta.
đi cùng anh
trên chuyến tàu mùa hạ…
/ phỏng dịch lời bài hát “summertrain” của greyson chance, trên chuyến tàu SE08
1 note · View note
lcthbao · 2 months
Text
khai bút / nói với tâm hồn tôi
phỏng dịch bản soneto “to my soul”
của Juan Ramón Jiménez (Nobel 1956)
Ngươi luôn sẵn sàng cho cành nhánh đơm bông
cho đóa hồng bừng trổ ra kiêu hãnh
luôn cảnh giác gióng tai nghe trước ngõ -
vỏ thân mình, nao nức ngóng tin sang.
chốn hư vô không một con sóng nổi
vẫn âm thầm chuyên chở một nguồn thiêng
xuyên bóng tối rủ lòng Ngươi thăm thẳm
giữa đêm trường thức thở một vì sao.
Ngươi đã dựng trên nỗi đời dâu bể
một vô hình tội lỗi chẳng ai hay
nay tái sinh trên đỉnh đời chói lọi
một dáng hình độc nhất riêng mang.
ôi đóa hồng của tuyệt cùng hương sắc
ôi tai này thưởng tuyệt tưởng hoan ca
và sáng chói trong cõi đời lâm lụy
những vì sao thao thiết giữa tim Mình.
4 notes · View notes
lcthbao · 4 months
Text
Ella Frances Sanders, "Everything, Beautiful" (trích)
“tôi muốn lý giải cái đẹp như một thứ tựa hồ như âm nhạc, tựa hồ như nước, tựa hồ như tình yêu. nó đã hiện diện quanh đây kể từ trước khi con người chúng ta xuất hiện, và vẫn sẽ luôn hiện diện cho đến mãi sau này. trong suốt cuộc hội ngộ ngắn ngủi và rối bời của chúng ta với hành tinh này, cái đẹp đã tự nó phân thân thành vô lượng những mảnh nhỏ hơn, để ta được tìm kiếm, để ta được gom nhặt.
tôi có thể lý giải cái đẹp như những điều khiến bạn phải dừng bước, nhưng cũng là những điều khiến bạn phải dấn thân. tôi có thể dông dài đủ để khẳng định rằng cái đẹp là một nguồn cơn ẩn hiện. nguồn cơn ấy khởi phát nên ý nghĩa của mọi điều, dù chỉ là trong một khoảnh khắc. tôi có thể lý giải nó như là những trợ lực nâng lấy sức nặng cơ thể chúng ta, là lý do cho việc cá bơi dưới nước, cho cả việc tại sao ta chọn thức dậy mỗi sáng bên cạnh một người trong suốt sáu mươi năm…
tôi muốn lý giải cái đẹp như những lối hành lang trước lúc đầy ắp người, như một buổi hừng đông chỉ mới có loài chim thức giấc. nó là những đường biên rất mảnh mà ta vạch ra giữa bản thân và mọi sự: quá trình kiến tạo nên ý nghĩa, những nhận thức muộn màng, sự tương xứng, niềm trông mong, những nghĩa cử tử tế, và cả niềm hy vọng. cái đẹp luôn luôn hiện diện và xuất hiện kịp thời.
tôi muốn lý giải cái đẹp như những điều bé mọn gắn liền với chúng ta, giống như những tiếng kêu khe khẽ thúc giục ta phải hành động, phải công tâm. nó là việc gieo xuống những hạt mầm và vun trồng nên tương lai.
tôi muốn lý giải cái đẹp nhưng cũng tự ý thức được rằng nỗ lực này tựa hồ như việc cố gắng cắt nghĩa tình yêu: chẳng là gì cả, nhưng cũng là tất cả…”
Bảo dịch
Tumblr media
(chừng như chưa đủ sến, ban đầu mình còn chuyển tựa cuốn này thành “Đẹp ơi, chào mi” phỏng theo tựa cuốn tiểu thuyết của Françoise Sagan và bài hát của Nguyễn Ánh 9. “nếu trên đường tình ta lẻ loi một mình, thì trên đường đời ta có mi buồn ơi.” đẹp và buồn. kể đến đây lại nhớ Kawabata Yasunari. nhưng thôi tóm lại vẫn cứ là “Everything, Beautiful”. mong một năm được như tựa sách!)
1 note · View note
lcthbao · 5 months
Text
[Pulitzer 2023] Hua Hsu, "Stay True" (trích)
Stay True - cuốn sách vừa được trao giải Pulitzer 2023 - là cuốn hồi ký coming-of-age được viết bởi Hua Hsu, một người con trong gia đình nhập cư Đài Loan, để tưởng nhớ Ken bạn anh, một người Mỹ gốc Nhật đã thiệt mạng trong một vụ cướp xe ô tô. Với những ví dụ minh họa phong phú về âm nhạc, thời trang, điện ảnh cùng các dẫn chứng văn hóa chi tiết, tác giả đã dựng lại một câu chuyện tuyệt đẹp của ký ức, tình bạn, nỗi tiếc thương cùng bản sắc (cụ thể là sự trăn trở của anh về danh tính người Mỹ gốc Á, cuộc sống nhập cư và ý niệm về giấc mơ Mỹ của riêng mình).
đoạn trích dưới đây thuộc phần đầu của cuốn sách do mình chuyển ngữ, chỉ thuần xuất phát từ lòng yêu mến ngay tắp lự vào khoảnh khắc đâm bổ vào đoạn văn này:
"vào tuổi đó, thời gian trôi thật chậm. bạn nóng lòng trông chờ một điều gì đó xảy đến, giết thì giờ trong những bãi đổ xe, tay đút sâu trong túi, gắng nghĩ xem tiếp đến sẽ đi đâu. cuộc sống đã diễn ra ở đâu đó, vấn đề chỉ là phải tìm cho ra tấm bản đồ dẫn đến nơi đó mà thôi. hoặc có lẽ, vào tuổi đó, thời gian trôi rất nhanh, bạn điên cuồng hành động mà quên không ghi nhớ kỹ càng những điều diễn ra. một ngày như dài vô tận, một năm là một kỷ nguyên địa chất. (...) thời đó, cảm xúc của bạn lúc nào cũng hoặc là leo thang hoặc là trượt dốc, trừ khi bạn buồn chán, và không một ai trước đây trong lịch sử nhân loại từng buồn chán đến thế. chúng tôi cười ngặt nghẽo tưởng chết đi. chúng tôi nốc rượu nhiều đến mức phát giác ra một thứ được gọi là ngộ độc cồn. tôi luôn sợ mình vướng phải ngộ độc cồn. chúng tôi thức rất khuya, mê sảng đề ra đủ thứ lý thuyết, chỉ là quên béng phải ghi chép lại. chúng tôi kinh qua hết những cuồng si lẫy lừng mà rồi đây chắc chắn sẽ hủy hoại chúng tôi suốt phần đời còn lại. trong thoáng chốc, bạn xuôi theo ý nghĩ rằng đến một ngày mình sẽ viết ra câu chuyện rầu rĩ nhất từ trước đến nay."
mong sao phiên bản "Thành Thật" này sẽ tìm được cơ hội xuất bản ở xứ mình.
Tumblr media
[...]
Khi cha tôi chuyển đến Đài Loan, gia đình tôi đã sắm một cặp máy fax. Trên lý thuyết, hai chiếc máy này là để ông có thể giúp tôi làm bài tập toán. Tôi lúc ấy vừa vào trung học, nơi tất cả mọi thứ, từ nhạc cụ tôi chơi cho tới sự hoàn chỉnh trong bản xướng âm của mình, bỗng dưng đều có vẻ liên hệ mật thiết. Vài năm trước đó, hồi lớp bảy, tôi đã làm bài kiểm tra tốt đến mức có thể học toán vượt hai năm, và lúc này đây tôi đang phải trả giá cho chuyện đó. Tôi đã đạt đến đỉnh cao quá sớm. Thực tế thì tôi siêu dở môn toán. Như rất nhiều dân nhập cư tôn vinh nền giáo dục, cha mẹ tôi một mực tin vào ưu thế của các lĩnh vực công nghệ, giống như khoa học, nơi các đáp án không cần biện giải. Bạn không thể phân biệt đối xử với câu trả lời đúng. Thế nhưng, tôi thích dành thời giờ để tìm hiểu nhiều thứ hơn.
Gửi fax thì rẻ hơn gọi điện thoại đường dài, và cũng đỡ áp lực hơn nhiều. Không có ngắc ngứ, không có những khoảng lặng im phí phạm. Bạn chỉ cần quay số người nhận, cho một tờ giấy qua máy, và một bản sao sẽ được in ra ở đầu kia thế giới. Múi giờ giữa Cupertino và Tân Trúc lệch nhau đến mức tôi có thể gửi fax cho cha một câu hỏi vào buổi tối và mong chờ câu trả lời khi tôi thức dậy vào sáng hôm sau. Những yêu cầu bài tập về nhà của tôi luôn được đánh dấu là khẩn cấp.
Cha cẩn thận giải thích các nguyên tắc hình học trên lề giấy, xin lỗi nếu lỡ có chỗ nào lướt nhanh hay chưa rõ ràng, bởi ông đang rất bận rộn khẳng định bản thân trong công việc mới. Tôi đọc lướt qua phần diễn giải rồi chép lại các phương trình cũng như dẫn chứng. Thi thoảng, tôi thưởng cho các phản hồi nhanh chóng và kỹ càng của cha bằng cách xen kẽ loạt bài tập toán tiếp theo với một bản tóm tắt tin tức của Mỹ: tôi kể cho cha nghe thông báo của Magic Johnson về việc ông ta dương tính với HIV, tường thuật lại các sự kiện dẫn đến những cuộc dấy loạn Los Angeles, cập nhật cho ông số phận của những Gã khổng lồ. Tôi nói với cha về việc luyện tập xuyên quốc gia, thành thật cam kết sẽ học hành chăm chỉ hơn ở trường. Tôi liệt kê những bài hát mới mà tôi thích, và ông sẽ tìm nghe trong những hiệu băng cát-xét ở Đài Bắc rồi nhắn lại cho tôi những bài mà ông thích:
Cha thích bài November Rain của Guns N’ Roses. Nhóm Metallica cũng hay nữa. Cha không nghe nổi nhạc của Red Hot Chili Peppers và Pearl Jam. Mấy bài hát cũ được làm lại của Mariah Carey (I’ll be there) và Michael Bolton (To love somebody) thật tuyệt làm sao. Chương trình “unplug” của MTV là một ý hay đó!
Ở tuổi thiếu niên, căn bản mà nói tôi có nhiều thứ hay ho hơn để làm thay vì gửi fax cho cha. Ông vớ lấy ngay bất kỳ điều gì mà tôi nhắc tới và bủa vây tôi bằng hàng tá câu hỏi. Tôi mô tả một trong những lớp học của mình là tẻ nhạt, và ông cật vấn tôi về cách dùng từ cũng như việc quan sát “nhiều ‘thử thách’ mang cảm giác ‘tẻ nhạt’ nhưng lại ‘hữu ích’ một cách hợp lẽ.” Tôi nhắc đến chuyện chúng tôi sẽ khái quát lại những năm 1960 trong lớp lịch sử và cha hỏi ngay, “Con tin là chỉ có mỗi Oswald giết chết JFK thôi sao?”
Cha luôn hỏi ý kiến của tôi về mọi sự. Có lẽ đó là nỗ lực của ông trong việc nối dài cuộc chuyện trò qua lại giữa hai cha con. Cha nhắc đến thể thao, thứ mà tôi nghĩ chẳng hấp dẫn gì ông. Chúng tôi như hai anh chàng chuyện vãn trong một cửa hàng kim khí.
Redskin thật quá sức với Bill!?
Còn Nicks thì sao? [Knicks]
Là trận giữa Jordan với Buckley! [Barkley]
World Series kỳ này thật ngoạn mục.
Tranh thủ những dịp được nghỉ học nguyên tuần, mẹ và tôi bay về Đài Loan thăm cha. Có khi tôi cố làm ra vẻ bù đầu bù cổ với bài tập ở trường để cha có thêm cớ sang thăm mẹ con tôi ở Bay Area, thay vì hai mẹ con tôi phải vượt đường xa đến chỗ cha, nhưng việc này chẳng bao giờ có tác dụng. Chúng tôi dành tất cả các mùa hè và mùa đông ở Tân Trúc. Nhiều tuần lễ sẽ trôi qua trong khi những người duy nhất mà tôi trò chuyện cùng là cha mẹ và những người bạn trung niên của họ.
Tôi luôn khiếp hãi những chuyến đi này. Tôi không thể hiểu được vì sao cha mẹ tôi lại muốn quay về một nơi mà họ đã chọn rời bỏ.
Cha tôi rời Đài Loan sang Mỹ vào năm 1965, khi đó ông hai mươi mốt tuổi, và trước khi đặt chân trở về thì ông gần như đã già gấp đôi tuổi ấy. Trong những ngày đó, bạn sẽ rời đi ngay khi có thể, nhất là khi bạn là một sinh viên sáng giá. Một tá các nhà vật lý khác đã tốt nghiệp cùng thời với cha tôi từ trường Đại học Đông Hải, và mười người trong số họ rốt cuộc đã theo đuổi sự nghiệp ở nước ngoài. Cha tôi đã bay từ Đài Bắc đến Tokyo, đến Seattle rồi mới đến Boston. Ông dáo dác tìm trong đám đông người bạn đã vượt đường sá xa xôi từ tận Providence đến sân bay để đón và đưa ông về Amherst.
Thế nhưng, người bạn này lại không biết lái xe nên đã hứa đãi bữa trưa cho một anh chàng khác, người mà cha tôi không hề quen biết, đổi lại người kia sẽ lái xe đến sân bay Boston rồi đến Amherst, và cuối cùng là về lại Providence. Hai chàng trai trẻ đón chào cha tôi ở cổng, trao nhau những cái vỗ vai rồi hối cha tôi lên xe, nơi họ cất tất cả của nả trên đời của mình - hầu hết là những cuốn sổ ghi chép và áo len - trong cốp. Ba người khởi hành từ phố người Hoa (Chinatown) của Boston - cánh cổng trở về với một thế giới mà họ đã bỏ lại sau lưng. Tình bạn và thiện chí là hai lý do chính đáng cho hàng giờ đồng hồ lái xe đến sân bay rước một người. Điều không kém phần quan trọng hơn là sân bay nằm gần nơi có những món ăn mà bạn không thể nào có được trong những khu phố đại học bé nhỏ phía đông bắc.
Trong những năm sau đó, cha tôi - một kẻ xa xứ lạc bầy tự nguyện - đã gom nhặt được kha khá đặc điểm đủ để khoác lên mình một danh tính Mỹ. Ông sống ở New York, chứng kiến và tham gia vào các phong trào phản kháng của sinh viên, và, dựa theo bằng chứng ảnh chụp lại, từng có thời nuôi tóc dài và mặc quần thời thượng. Thời điểm vừa đặt chân vào đất Mỹ, cha là một người say mê nhạc cổ điển, nhưng chỉ trong vỏn vẹn vài năm, bài bát yêu thích nhất của ông đã trở thành “House of the rising sun” của nhóm The Animals. Cha đăng ký đặt báo The New Yorker định kỳ trong chớp nhoáng, trước khi nhận ra nó không dành cho những kẻ mới đến như ông và yêu cầu được hoàn tiền. Ông khám phá ra sự hấp dẫn của bánh pizza và kem rượu rum nho khô. Hễ có sinh viên mới tốt nghiệp đến từ Đài Loan, ông và chúng bạn mình sẽ nhồi nhét vào trong một chiếc xe trống chỗ đang đậu gần nhất để phi đến đón họ. Đó là một nghi thức, và là một dạng thức của tự do không thể nào bỏ lỡ: lên đường và ăn uống cho thật ra trò.
Họa hoằn lắm người Mỹ thời đó mới biết đến Đài Loan, nhưng chỉ như một hòn đảo hẻo lánh nằm cận Trung Quốc và Nhật Bản, nơi sản xuất và xuất khẩu những thứ đồ nhựa rẻ tiền. Hồi mẹ tôi còn nhỏ, ông ngoại đã dựng một tấm bảng viết phấn trong gian bếp của gia đình để mỗi ngày viết lên đó một từ tiếng Anh mới. Thế Chiến II đã làm gián đoạn con đường học y của ông, biến ông thành một cán bộ công chức. Ông muốn một tương lai xán lạn hơn cho con cái mình. Ông bà ngoại đã bảo mẹ tôi và các anh chị em của bà chọn những cái tên Mỹ như là Henry hoặc Carol. Đám trẻ nắm được căn bản tiếng Anh, có thể dùng thứ ngôn ngữ kỳ dị và mới mẻ này để gọi mời một tương lai mới trở thành hiện thực. Họ tìm hiểu về phần còn lại của thế giới nói tiếng Anh thông qua việc đặt định kỳ tạp chí Life. Cũng từ những trang tạp chí ấy mà mẹ tôi đã lần đầu tiên phát hiện ra sự tồn tại của một thứ ở Mỹ được gọi là Chinatown.
Khi mẹ tôi đến Mỹ vào năm 1971 (từ Đài Bắc đến Tokyo rồi mới đến San Francisco), gia đình tiếp đón đã tinh ý chờ thêm một ngày để bà khỏe lại sau chuyến đi dài trước khi đưa bà đi ăn đồ Hoa. Mẹ đang trên đường đi học y tế cộng đồng tại bang Michigan. Ngay sau khi đặt chân tới East Lansing, ký hợp đồng thuê nhà, đăng ký các lớp học và mua một chồng sách giáo khoa không hoàn trả, bà nhận được một tin nhắn từ cha mình. Hóa ra trong lúc mẹ đang trên đường tới Michigan, một lá thư đã được gửi về nhà ở Đài Bắc, thông báo rằng bà đã đậu vào trường Đại học Illinois tại Urbana-Champaign - lựa chọn hàng đầu của bà. Vậy nên, mẹ tôi tranh thủ thu hồi được bao nhiêu hay bấy nhiêu phần học phí từ bang Michigan và nhanh chóng khởi hành đến Illinois.
Vào những năm 1960, cộng đồng sinh viên từ khắp các vùng nói tiếng Trung đã tìm ra thêm một thành viên mới trong những khu phố đại học nhỏ bé và xa xôi này. Đa số đều thích nghi với các chuyển mùa, với một cung cách chuyện trò thú vị khác lạ, với những cánh đồng ngút ngàn và những con đường cao tốc trải dài vô tận. Trường học đã neo mẹ tôi xuống mạn Trung Tây nhưng bà vẫn tự do rong ruổi khắp: một công việc tại một trung tâm cộng đồng tại Kankakee nơi chỉ có mỗi mình mẹ không phải là người da đen - cái nhìn cận cảnh đầu tiên của bà vào sự phân chia chủng tộc của Mỹ, một mùa hè làm chân chạy bàn ở nơi bà đã ăn kem vào mỗi bữa trưa. Thế nhưng, vài người bạn cùng lớp của mẹ lại không thể đương đầu với bối cảnh hoàn toàn mới này, hoặc có lẽ là thiếu đi một bối cảnh tương tự. Bà vẫn còn nhớ một cô gái đã bỏ tất cả các lớp học và dành thời gian loanh quanh khắp trường. Ngay cả lúc mùa hè bước vào đỉnh điểm, cô gái vẫn lang thang trong chiếc áo lạnh dày nhất của mình. Tất cả sinh viên Đài Loan đều giữ khoảng cách với cô.
Đã có những bữa góp gạo thổi cơm chung với chúng bạn mà mẹ tôi sẽ làm món thịt băm viên, rồi những chuyến đi đến các địa danh nổi tiếng hay các cửa hàng bách hóa có bán cải thìa, đời sống ký tá xá giao thoa nhộn nhịp. Bạn có thể nhận ra ngay một sinh viên Đài Loan bởi chiếc nồi cơm điện hiệu Tatung của họ. Mẹ tôi theo đuổi hội họa, phần lớn tranh của bà đều trừu tượng và siêu thực, cách dụng màu không tiết lộ một tâm trạng rõ ràng. Sau này, khi tôi hỏi có phải bà đang phê thuốc trong lúc vẽ chúng hay không, mẹ cam đoan rằng thời đó bà chưa bao giờ hút cần, dù vẫn còn nhớ rõ mùi hương của nó.
Sau hai năm theo học tại trường Đại học Massachusetts Amherst, cha tôi chuyển đến Đại học Columbia. Từ đó ông đã theo giáo sư hướng dẫn của mình đến trường Đại học Illinois, chính là nơi cha mẹ đã gặp nhau. Họ tổ chức đám cưới tại một trung tâm sinh viên trong khuôn viên trường. Phải mà phố người Hoa gần nhất không cách nơi họ sống đến ba giờ đồng hồ, cha mẹ tôi hẳn đã có thể tổ chức một bữa tiệc trong nhà hàng. Cậu tôi, anh trai của mẹ, một thương nhân hàng hải đã rời Đài Loan đến Virginia, là người duy nhất trong hai bên gia đình có thể đến dự. Ít ra cha mẹ tôi còn có các bạn mình. Một trong số đó là họa sĩ, người đã họa những bức vẽ Snoopy và Woodstock trên giấy cạc-tông rồi dàn lên thảm cỏ bên ngoài trung tâm. Tất cả mọi người đều mang món ăn yêu thích của họ đến chung vui.
Người ta thường bàn tán về dân nhập cư như một động lực đẩy-và-kéo: một điều gì đó từ quê nhà thúc đẩy bạn, rồi một điều gì đó khác lại kéo bạn đi xa. Cơ hội cạn kiệt ở nơi này và nảy sinh ở nơi khác, bạn cứ đi theo lời hứa hẹn hướng đến một tương lai tốt đẹp hơn. Các phiên bản của những cuộc hành trình này kéo dài hàng trăm năm, tỏa ra theo mọi hướng.
Vào thế kỷ mười chín, Anh và Trung Quốc là hai đối tác thương mại thân tình. Người Anh đổi bạc lấy trà, lụa và đồ sứ của người Trung Quốc. Thế nhưng, dân Anh đang tìm kiếm một lợi thế. Họ bắt đầu trồng thuốc phiện ở Ấn Độ và vận chuyển sang Trung Quốc, sau đó chuyển lại cho những kẻ buôn lậu phân phối khắp đất nước. Rốt cuộc, người Trung Quốc đã phải cất công loại bỏ chất này, làm dấy lên lo ngại của người Anh về một ngày các cửa cảng Trung Quốc sẽ đóng lại với họ. Những cuộc Chiến tranh Nha phiến đã tàn phá miền đông nam Trung Quốc, đúng vào thời điểm miền tây nước Mỹ đang cần nguồn lao động giá rẻ. Trong những năm 1840 và 1850, bị thu hút bởi những lời hứa hẹn về việc làm, cánh đàn ông Trung Quốc đã thoát ly khỏi tỉnh Quảng Đông - lúc này đang bị giày xéo trong cuộc can qua - trên những chuyến thuyền dong đến xứ cờ hoa. Họ lắp đường ray, khai thác vàng và đi đến bất kỳ đâu cần mình. Tuy nhiên, đó cũng chính là giới hạn trong phạm vi di chuyển của họ. Bị cô lập trong những quận tồi tàn nhất của thành phố bởi những bộ luật phức tạp và áp lực xã hội, cùng với việc không có phương tiện (đôi khi là cả khao khát) hồi hương, họ bắt đầu dựng lên những phố người Hoa tự cung tự cấp để nuôi sống, bảo vệ và chăm sóc lẫn nhau. Đến những năm 1880, nền kinh tế Mỹ không cần nhân công nước ngoài giá rẻ nữa, dẫn đến các chính sách loại trừ nhằm hạn chế dân Trung Quốc nhập cư trong nhiều thập kỷ.
Những động lực đẩy và kéo này vẫn còn tiếp diễn khi Đạo luật Nhập cư năm 1965 nới lỏng các hạn chế nhập cảnh từ châu Á, ít nhất là với những người có thể đóng góp cụ thể cho xã hội Mỹ. Các nhà hoạch định chính sách ý thức được rằng nước Mỹ đang mất dần khía cạnh khoa học và sáng chế của mình sau Chiến tranh lạnh, cho nên nhà nước chào đón những sinh viên tốt nghiệp giống như cha mẹ tôi. Ai biết được tương lai Đài Loan sẽ ra sao? Ở Tân thế giới, mọi thứ có vẻ không ngừng đi lên. Cha mẹ tôi không bị cuốn đến Mỹ bởi bất kỳ một giấc mơ nào cụ thể, chỉ là bấu víu vào một cơ may thay đổi. Dù cho ngay lúc đó họ đã ngộ ra rằng, cuộc sống ở Mỹ chính là lời hứa hẹn và sự giả tạo khôn cùng, là niềm tin và tham vọng, là những trường phổ mới của niềm vui và sự ngờ vực bản thân, là sự phóng thích bởi chính cảnh nô lệ. Là tất cả những điều đó tựu chung lại một lẽ.
Cha mẹ tôi đã đi một chuyến dài từ Illinois đến bờ Tây hưởng tuần trăng mật, họ chụp ảnh suốt dọc đường. Bản mô tả chân thực duy nhất của chuyến đi này chỉ hiện về với họ trong chớp nhoáng, bởi những cuộn phim còn chưa kịp tráng kia đã bị thó mất khi có kẻ đột nhập vào trong xe họ ở Manhattan giữa thanh thiên bạch nhật.
Tôi được sinh ra vào năm 1977 ở Urbana-Champaign. Cha tôi muốn trở thành một giáo sư, nhưng sau khi ông không thể tìm được một công việc chuyên môn học thuật, chúng tôi đã chuyển đến Texas nơi ông làm việc như một kỹ sư. Vùng ngoại ô Dallas cho chúng tôi rất nhiều không gian. Người ta có thể đi lạc trong sự thênh thang đó. Mấy năm trước, tôi tìm thấy một tờ giấy ngả vàng dễ rách từ đầu những năm 1980 - một mẩu quảng cáo mà mẹ tôi đã cắt ra từ trang rao vặt địa phương:
DẠY NẤU MÓN HOA - học cách nấu những món ăn mới lạ chỉ bằng những nguyên liệu và dụng cụ làm bếp sẵn có.
$12 một lớp. Để biết thêm thông tin xin liên hệ bà Hsu theo số máy: 867-0712     
Không một ai gọi đến. Cha mẹ tôi đã quyết định thử vận ở một nơi khác khi tôi bắt đầu lè nhè nài xin đôi bốt cao bồi và một cái tên Mỹ, cũng như sau khi được bảo rằng nhà hàng bít tết địa phương không dành cho “những người như họ”.
Các địa chỉ trước của cha mẹ tôi có thể tập hợp lại thành một trang sử của tình bạn và những người quen: một buồng ngủ trong căn gác xép của ai đó, những cuộc viếng thăm các gia đình bạn bè mà họ chỉ mới nghe qua chứ chưa bao giờ gặp mặt, một công việc mùa hè tại một thị trấn nhỏ cách mấy giờ đồng hồ, một cơ hội việc làm trong một lĩnh vực mới nổi lạ lẫm. Họ không mơ nhiều đến thành phố lớn mà chỉ vạch ra những địa điểm gần bạn bè, gần đồ ăn Trung Quốc, gần một học khu chất lượng, gần một nhà dưỡng lão. Vậy nên, xếp sau Tesax chỉ có Delaware hoặc California, và họ đã chọn California.
Khi chúng tôi đặt chân đến Cupertino vào năm 1986, xứ này vẫn đang trong quá trình chuyển đổi. Có một xí nghiệp khổng lồ ngay trung tâm thành phố, các trang trại cùng vài tòa nhà Apple trông như một trò đùa. Không một ai dùng máy tính của hãng.
Vùng ngoại ô là những cuộc chinh phạt không gian nhàn hạ, thay thế cho cảnh ngột ngạt chốn thị thành. Những vùng này dường như đã tự thân thoát ly ra khỏi lịch sử, mang lại cảm giác vẫn hoang sơ tự thuở nào. Thế nhưng, ảo giác bình yên ấy sớm lợt lạt đi bởi nỗi loạn thần khi phải duy trì một bãi cỏ được xén tỉa gọn gàng, những lối đi nguyên sơ chưa in dấu chân người, những cuộc thánh chiến nhằm giữ cho các đô thị tự trị không tràn lấn vào nhau. Vùng ngoại ô gợi lên sự ổn định và tuân thủ, nhưng hiếm khi nào giữ được truyền thống. Hay nói đúng hơn, đó là những phiến đá có thể lau sạch đi để đáp ứng cho những khát vọng mới.
Khi Thung lũng Silicon nở rộ vào cuối những năm 1980 đầu những năm 1990, ngày càng nhiều dân nhập cư châu Á chuyển đến những nơi như Cupertino. Thế hệ ông bà tôi đều chuyển từ Đài Loan đến South Bay, và hầu hết các anh chị em của cha mẹ tôi cũng định cư ở đó. Đài Loan chỉ còn đại diện cho một quê hương xa xôi trong trí tưởng tượng. Vùng ngoại ô Thung lũng Silicon nương theo một lối chuyển đổi dần dà và quanh co. Các doanh nghiệp đang trên đà suy sụp được làm lại bởi những làn sóng dân nhập cư mới, cùng lúc với các thương xá bắt đầu chuyển mình, từng cửa hàng một, thành những ốc đảo ngập tràn món ăn Trung Quốc và những mốt tóc so le thời thượng. Quán cà phê trà sữa cùng những hiệu sách Trung Quốc cạnh tranh mọc lên, các bãi đổ xe hổ lốn với những chiếc Honda “độ” lại và những bà mẹ hy vọng giữ được làn da tái nhợt của mình sau lớp mũ khẩu trang che kín mặt và bao tay dài.        
Dấu tích của một thời đã qua vẫn còn đó, trong những chu trình sử dụng và tái sử dụng: một khu đất trống của Cherry Tree Lane được tận dụng triệt để thành một vườn cây ăn trái thực thụ, chái nhà cao nhất của nhà hàng Sizzler khi xưa biến thành điểm bán dimsum, toa ăn sang trọng trên xe lửa trở thành tiệm mì. Các đầu bếp từ Hồng Kông và Đài Loan đã hòa vào làn sóng kỹ sư di thân đến California. Áp lực phải thu hút thực khách và khách mua hàng không phải người Trung Quốc dần biến mất. Khái niệm “chính thống” không còn trụ vững. Xương cổ và chân gà và vô vàn những thứ sền sệt, băng VHS thâu phim bộ Đài Loan lồng tiếng mới nhất cùng sách báo tiếng Trung, tất cả đều có thể kiếm ra tiền trước khi dần dà rơi rụng.
Tôi không nhận ra cha mẹ mình đã xa Đài Loan lâu đến thế nào, cho đến khi mẹ tôi bắt đầu phàn nàn về những người nhập cư mới đến từ Trung Quốc, để xe đẩy hàng lung tung khắp bãi đổ xe của cửa hàng bách hóa châu Á. Ngoài cộng đồng Hoa Kiều ở hải ngoại, chắc khó có ai khác nhận ra được sự khác biệt giữa một người nhập cư Đài Loan đến vào những năm 1970 và một người đến từ Trung Quốc vào những năm 1990. Họ trông chẳng có vẻ gì khác, ngữ điệu chắc cũng giống nhau. Thế nhưng, mối liên hệ giữa những người này với nền văn hóa Mỹ và sự tương thích của họ bên trong nó thì khác nhau. Những người nhập cư mới đến, tính khí thiếu hòa nhã này chắc còn không biết đến sự tồn tại xưa kia của một tiệm bách hóa châu Á duy nhất trong vùng, và nó thậm chí còn hơi xập xệ, lại còn xa đến nửa giờ đồng hồ lái xe.
Trong những món đồ còn sót lại từ những năm đầu sống tằn tiện của cha mẹ tôi, có hai cuốn sách bìa mềm cũ rích mà thời đó bán rất chạy là Cú sốc tương lai và Hồ sơ Lầu Năm Góc, tập tiểu luận mỏng “Cuộc đấu tranh giai cấp và nguồn gốc của chế độ nô lệ chủng tộc: Sự ra đời của chủng người da trắng” của Theodore Allen với chữ “C. HSU” được viết trên bìa, một cuốn sách về chuyến thăm Trung Quốc của Nixon cùng một cuốn khác về lịch sử người Mỹ gốc Phi.  
Đây có lẽ chính là ý nghĩa của việc sống ở Mỹ. Bạn có thể đi khắp nơi. Bạn được trao cho những cơ hội không có ở quê nhà. Bạn có thể tự biến mình thành một con chiên ngoan đạo, một thực khách sành pizza, một kẻ say mê nhạc cổ điển hoặc Bob Dylan, một người hâm mộ Dallas Cowboys vì mọi người xung quanh có vẻ đều như thế. Trong một thời gian ngắn, cha tôi đã hớn hở Anh hóa tên mình và bảo mọi người gọi ông là Eric, dù đã sớm nhận ra tính đồng hóa của yêu cầu đó chẳng hề phù hợp với ông. Bạn được tự do đặt tên cho con mình theo tên các tổng thống Mỹ. Hoặc bạn có thể đặt cho chúng cái tên không thể nào phát âm được, dù gì thì chúng cũng sẽ không bao giờ trở thành tổng thống.
Từ Amherst đến Manhattan đến Urbana-Champaign đến Plano đến Richardson đến Mission Viejo đến Cupertino luôn luôn có những đĩa nhạc, một chiếc máy phát đĩa mà cha tôi luôn cuốn gói theo mình cùng một cặp loa Dynatone. Ông bắt đầu gầy dựng bộ sưu tập âm nhạc của mình ngay khi cập bến Mỹ. Thoạt đầu, cha đặt đĩa qua thư với một câu lạc bộ đĩa than. Với loại này, bạn sẽ phải trả giá cao hơn một chút, sau đó sẽ mua được thêm cả tá đĩa chỉ với giá một xu. Hồi đó chủ yếu là nhạc cổ điển. Rồi ông dần quen với chất giọng the thé miễn cưỡng của Bob Dylan phát ra từ căn hộ láng giềng vào khoảng những năm 1960. Cha bắt đầu mua đĩa Dylan, học cách chiêm ngưỡng giọng ca mỏng tang và lạ lùng đó, có lẽ còn hơn cả việc hiểu được ca từ.
Nếu có thể, các đĩa nhạc của cha sẽ được giữ kỹ trong màng bọc gốc để tránh làm mòn lớp bìa áo cứng bên ngoài. Ông sẽ bóc một góc màng kính để dán tên mình lên - Hsu Chung-Shih. Sau nhiều năm, vài đĩa nhạc của ông đã được đem tặng, nhưng phần lớn vẫn còn giữ nguyên: Dylan, The Beatles và Stones, Neil Young, Aretha Franklin, Ray Charles. Có mấy đĩa của Who, Jimi Hendrix, Pink Floyd, vài bộ của Motown. Rất nhiều nhạc cổ điển. Có đĩa của Blind Faith vì hồi cha mẹ tôi mới tốt nghiệp, một người đàn anh khóa trên từ West Indies đã lôi cây đàn violin của mình ra chơi bản solo trong “Sea of Joy” suốt bữa tiệc tối. Có cả các album hát đơn của John Lennon và George Harrison, nhưng không có đĩa nào của Paul Mccartney, nên tôi đồ rằng sự nghiệp hậu-Beatles của ông không mấy nổi bật. Tương tự, không có đĩa nào của Beach Boys cũng đồng nghĩa với việc nhạc của họ chắc là tệ lắm. Không có nhạc jazz, trừ một album của Sonny và Linda vẫn còn dán kín. Cha mẹ tôi nghe Thriller nhiều đến nỗi tôi ngờ rằng Michael Jackson là một người bạn thân thiết của gia đình.
Bộ sưu tập đĩa nhạc của cha chỉ khiến tôi thấy âm nhạc có vẻ thật xoàng xĩnh, là một thứ mà người lớn cứ làm quá lên. Cha nghe nhạc của Guns N’ Roses, trong khi tôi chỉ nghe tường thuật bóng chày trên radio. Ông là người thâu lại mấy tiếng đồng hồ chương trình MTV trên một đầu máy VCR và cắt gọt những gì ông đã tìm được vào cuốn băng tổng hợp những bản hit tuyệt nhất trên một đầy máy VCR khác. Ông chính là người luôn muốn đến Tower Records và dạo khắp các lối đi, chọn mua tất cả những dạng thức mới được làm lại của những đĩa nhạc mà ông đã yêu thích từ lâu. Ông mua tờ Rolling Stone và Spin, tỉ mẩn chép lại các danh sách nhạc của năm hoặc những album hay nhất của thập kỷ, sau đó sẽ đi lùng những bản mà ông nghĩ là mình sẽ thích.
Khi bắt đầu học cấp hai, tôi nhận ra việc mua đĩa nhạc của cha đã chuẩn bị cho tôi bước vào hệ thống phân cấp xã hội giờ nghỉ. Tôi bắt đầu xem MTV và nghe nhạc trên radio, tiếp thu thật mau lẹ để không có vẻ như một kẻ đang làm màu, điều mà tôi sợ nhất. Tôi nắm được bí kíp bảng xếp hạng nhạc pop, vốn là tài sản chắc chắn nhất của tuổi thiếu niên có được nhờ nghiền ngẫm các tạp chí của cha, ghi nhớ tên các ban nhạc, các điểm tham chiếu và những câu chuyện linh tinh. Lúc này, tôi đã theo cha trong những chuyến đi sau bữa tối đến hiệu băng đĩa. Có vẻ như chúng tôi đã dành nhiều giờ đồng hồ riêng lẻ ai làm chuyện nấy, chỉ thi thoảng mới đụng nhau trong một lối đi bất chợt. Mọi thứ đều có vẻ tiềm năng, đều là một manh mối, một lời mời gọi bước vào các thực tại xúc cảm mới mẻ chưa từng có. Hai cha con tôi say mê cùng một thể loại âm nhạc, nhưng nó lại mở ra cho chúng tôi thấy những điều khác nhau. Tôi nghe ra trong màn solo guitar vừa cường điệu vừa tinh tế của Slash trong bản “November Rain” sự khai phóng, nghe ra trong đó một gợi ý rằng tầm nhìn điên cuồng và đầy cam kết có thể đưa bạn đi xa, đến một nơi khác. Còn với cha mẹ tôi, sự vĩ đại của Slash chính là minh chứng cho kỹ năng điêu luyện, kết quả của hàng ngàn giờ học tập và thực hành.
Đầu những năm 1990, khi Thung lũng Silicon bùng nổ thì ngành công nghiệp bán dẫn của Đài Loan cũng phất lên. Chẳng bao lâu sau, bạn bè của cha mẹ tôi bắt đầu quay trở về sau mấy thập kỷ xa xứ, gắng giữ nhà ở cả hai đất nước để con cái mình có thể học hết trung học và vào đại học ở Mỹ. Khoảng cuối những năm 1980, cha tôi lên chức quản lý cấp trung tại Mỹ, nhưng ông đã quá mỏi mòn với những nấc thang thăng tiến của công ty, để lên được vị trí cao nhất dường như lại phụ thuộc vào những yếu tố hết sức ngẫu nhiên như màu da và độ run rẩy trong giọng nói. Rốt cuộc, cha mẹ tôi cũng quyết định trở về Đài Loan. Một ghế quản trị đang chờ đợi ông. Sẽ không bao giờ ông nhuộm tóc hay động đến bộ golf của mình nữa. Chúng tôi mua hai chiếc máy fax.
Thỉnh thoảng tôi lại gặp các bạn cùng lớp ở sân bay và nhận ra chúng tôi đều đến đó để đưa cha mình đi làm. Chúng tôi cùng sống tại một trong những thành phố hiếm hoi của Mỹ, và đây không phải là sự sắp đặt gì khó lý giải. Nó hơi giống với “Núi vàng” - một câu chuyện dân gian Trung Quốc về cơ hội Mỹ, vốn đã được truyền miệng từ thời cơn sốt vàng, ngoại trừ chi tiết trong những ngày đó, cánh đàn ông trai tráng sẽ vượt Thái Bình Dương đi tìm việc làm ở Mỹ, hoàn toàn không có chiều ngược lại.  
Thế hệ đầu tiên trăn trở chuyện sinh tồn, còn các thế hệ tiếp theo thì kể lại những câu chuyện đó. Tôi thường đảo chi tiết và các hiệu ứng nhỏ trong chuyện đời của cha mẹ tôi thành một màn tự sự. Làm sao họ có được cảm nhận hay quyết định về những bộ phim mà mình sẽ xem? Họ có nhìn ra chính bản thân mình trong cuốn Cú sốc tương lai hay không? Và người có tầm ảnh hưởng mang tên Eric kia là ai trong cuộc đời cha tôi? Mọi sự chung quanh họ đều như những chất liệu thô cho các danh tính Mỹ mới xuất hiện, và họ đã đi xa hết mức mà chiếc ô tô của mình hoặc đường tàu điện ngầm có thể đưa tới. Thời đó, cần phải có một chút may mắn và nhiều tháng liền cẩn trọng lên kế hoạch thì mới có thể hồi hương. Mất nhiều tuần liền chỉ để xếp lịch một cuộc gọi đường dài và đảm bảo sẽ có người nhà nghe máy ở bên kia đầu dây.
Họ đã đi học tại những ngôi trường Mỹ, vượt xa các đồng môn châu Á khác dù phần thưởng cho cuộc đeo đuổi điên cuồng này vẫn chưa được chú trọng. Họ đã chọn nỗi cô đơn thường trực, lối sống tha phương và rào cản ngôn ngữ. Thứ mà họ khước từ chính là danh tính người Mỹ gốc Á, một khái niệm chỉ mới xuất hiện cuối những năm 1960. Họ ít có điểm chung với những sinh viên Trung Quốc được sinh trên đất Mỹ, những sinh viên Nhật Bản tập trung ở phía bên kia khuôn viên trường học để đấu tranh cho nhân quyền hoặc quyền tự do ngôn luận, họ chẳng biết gì về Đạo luật bài Trung, về Charlie Cham, hay lý do tại sao người ta nên kháng cự quyết liệt lại những từ tục tĩu như “oriental” hay “chink”. Cha mẹ tôi và nhóm bạn của họ là những đại điện cho một “tộc người thiểu số kiểu mẫu”. Trên thực tế, họ thậm chí còn chưa hề dự tính trở thành người Mỹ. Họ chỉ đơn thuần không biết những danh tính đó đã sẵn chờ họ. Lòng trung thành của họ vẫn hướng về thế giới mà họ đã bỏ lại sau lưng.
Những cuộc gọi kia hẳn phải du dương và ngọt ngào lắm. Cảm giác của họ ra sao khi rời khỏi quê hương, băng qua Thái Bình Dương mà không biết ngày trở lại? Trong sự thiếu vắng kết nối đó, họ đã bấu víu vào một Đài Loan trong trí tưởng tượng, hay nói đúng hơn là một khái niệm trừu tượng, một đốm sáng soi đường, một bến bờ ma mị, hơn là một hòn đảo thực sự. Công nghệ sẵn có chỉ đưa họ đến đó vào những dịp đặc biệt. Vì thế cho nên, họ đã lần tìm dấu vết của quê hương trên gương mặt các bạn cùng lớp, họ nghe thấy nó vang vọng trong tiếng ồn ào những khi bước vào các tiệm bách hóa.
Giờ đây, cha mẹ tôi đã được tự do đến và đi tùy ý. Mẹ tôi dành phần lớn những năm 1990 trên các chuyến bay. Họ đã tìm hiểu về Đài Loan lại từ đầu. Chúng tôi sống ở Tân Trúc, một thị trấn nhỏ ven biển cách sân bay Đào Viên chừng sáu mươi phút về phía bắc. Tân Trúc được biết đến chủ yếu bởi những cơn gió giật và thịt viên hải sản ở đây.  Xứ này vẫn mang dáng vẻ rề rà và ngái ngủ, đến giờ vẫn chỉ có một khuôn viên trường công nghệ cao tuốt phía đường cao tốc, nơi đặt trụ sở của tất cả các công ty bán dẫn. Các thương xá khổng lồ bắt đầu mọc lên trong khu trung tâm.
Vào cuối tuần, cha mẹ tôi lái xe đến Đài Bắc để tìm lại các trà quán và rạp chiếu bóng mà họ còn nhớ từ những năm 1950, 1960. Họ không cần dùng đến bản đồ. Mấy thập kỷ qua đi không làm lu mờ khỏi tâm trí họ những hàng bán bánh bao ngon nhất. Cha mẹ tôi như hồi xuân ở Đài Loan, độ ẩm và thức ăn ở đây biến họ thành những con người khác. Có đôi khi, tôi thấy mình như một kẻ ngoại cuộc khi cùng cha mẹ ngồi trên những chiếc ghế đẩu gỗ liêu xiêu và lặng lẽ ăn những tô mì bò khổng lồ, mà nếu đang ngồi ở Mỹ thì hẳn sẽ gợi lên một màn độc thoại về ký ức tuổi thơ của hai người.   
Mỗi năm tôi ở Đài Loan chừng hai ba tháng. Tôi luôn khăng khăng đòi bật ICRT, một đài radio tiếng Anh, để nghe chương trình American Top 40 của Casey Kasem, được phát đi hàng tuần từ một thực tế gần gũi với tôi hơn. Cha mẹ tôi có những ký ức trìu mến về việc nghe đài khi còn ở tuổi thiếu niên, thời nó còn là một phần của Mạng lưới Lực lượng Vũ trang. Theo thời gian, cha tôi đã mất dần hứng thú với tân nhạc, và việc nghe chương trình đếm ngược chào năm mới một phần là nỗ lực của tôi để gắn kết với ông, để nhắc cho ông nhớ về sự huy hoàng của nước Mỹ mà một ngày nào đó ông có thể sẽ quay về. Mất một khoảng thời gian tôi mới hiểu ra rằng đây mới chính là cuộc sống hiện tại của chúng tôi, rằng cha mẹ tôi đã làm việc cật lực để có được nơi chốn trong cả hai thế giới. Trở thành người Mỹ vẫn sẽ là một dự án dở dang, và bộ sưu tập đĩa nhạc của cha tôi bắt đầu giống như những tàn tích của một con đường không còn ai theo nữa.
[...]
Bảo dịch
7 notes · View notes
lcthbao · 6 months
Text
BÀI CA ANH QUÈ NƠI GÓC PHỐ
dù có lẽ
tâm-hồn-tôi chẳng khác
nhưng xác-thân đã rệu rã muôn phần
biết bao lần cuộc đời quăng quật thế
đớn-đau-tôi thân xác ngả nghiêng này.
tâm-hồn-tôi vẫn gắng gượng qua ngày
để nâng đỡ xác-thân này ngay thẳng
cố bấu víu trên bộ xương gầy nhẳng
trong điên cuồng
vỗ đôi-cánh-đẹp-xinh.
này
hãy nhìn xem
đôi-tay-tôi đây
hai tay nhăn như hai mình cóc ướt
thoi thóp nằm lại sau bão giông…
và có lẽ
thánh-thần kia chẳng thích
vẻ mặt tôi những lúc gã trông qua
dù đôi lúc trong hiện-thân-chó-má
đã soi vào cùng tận hóa-thân-tôi.
/phỏng dịch bài thơ ‘song of the little cripple at the street corner’ của rainer maria rilke, qua bản dịch tiếng anh của david ferry/
3 notes · View notes
lcthbao · 7 months
Text
giữa hai nửa của một cơn mưa
nứt ra một khe hở
một giấc mơ một nỗi buồn nham nhở
một đớn đau một ánh nhìn bỡ ngỡ
một lối đi một hơi thở nhọc nhằn
anh bước vào khoảng không lâu rồi không ấm nắng
đi tìm hoàng hôn xa vắng
nở âm thầm bên phía không mây,
sao em không đến ngồi đây
rủ xuống hai đầu ngón tay hai nửa miền mưa phủ
hai nửa ngày xưa hai nửa buồn vui cũ
hai nửa ngập ngừng hai nửa đêm sâu
ta có nhau khi chẳng cần nhau nữa
chỉ muốn một mình với cái bóng mình thôi,
hát anh nghe câu hát của nguôi ngoai
thinh lặng sẽ dài giữa hai miền
anh biết
thơ anh viết là những lời sáo rỗng
nghĩa lý gì đâu một tiếng lòng
một buổi chiều mắc bẫy sầu giăng
đứng dưới lòng mưa trông bốn bề hư ảo
xoay hướng nào cũng chạm vào xa lạ
những mặt người của xứ sở hoang vu
xứ sở phân ly xứ sở bạo tàn
xứ sở khôn kham nứt mình thành hai nửa
một nửa chói loà một nửa âm u
một nửa hoan ca một nửa sầu thăm thẳm
một nửa lạnh lùng một nửa say mê
một nửa vẹn nguyên và chẳng còn chi nữa
anh bước vào khe hở giữa một cơn mưa.
4 notes · View notes
lcthbao · 8 months
Text
có những cuộc vá víu vẫn diễn ra trong âm thầm, những cuộc vá víu của tuổi tác, của nỗi niềm, của ký ức, của thói quen, không phải bởi những mặt người mà bằng chuỗi thanh âm, bằng những nơi chốn, bằng vài ba tiếng gọi, bằng một cái tên. nhắm hai mắt lại thấy mình vẫn như xưa, thấy quanh mình vẫn xoay vòng và trong mình hình như không tuổi, thấy bao nhiêu năm tháng đi qua cũng chỉ là một con số ước lệ lừa mị, lớn đó nhưng cũng có thể quên ngay. mấy đứa nhỏ xiếc lửa nóng rực và nồng nực mùi xăng đã lội xuống hồ hỏi xin từng đồng bạc lẻ, tiếng nước vỗ ì oạp. những xe đẩy hàng bán đồ ăn vặt lại trổ ra từ những góc đường khi tiếng xe tuần đã khuất. ai đó xa lạ vẫn nhớ mình. năm sáu bảy tám năm như một cái phẩy tay, mình vẫn là mình sau bao nhiêu lần ngồi đó, vẫn muốn nằm ngửa ra mà thu hết trời đêm vào trong mắt, làm sao giữ lại được ánh nhìn tĩnh lặng và trong veo, thu hết xôn xao cất vào trong túi áo rồi để quên suốt mấy mùa, mấy mùa nhọc nhằn bặt không gợn tiếng, thu hết cuộc đời mình vào một bóng cây lặng lẽ, bóng cây sững sững không gì có thể đốn đi. đi hết mấy vòng vẫn thèm quay về chốn cũ, bước mới bước cũ tự vá víu vào nhau. hai bàn tay gối sau đầu cũng vừa xong một cuộc vá víu, mười ngón tự đan vào khe hở của nhau. mùa này trời đêm không còn trong nữa, nên mắt ai cũng có những hôm đục ngầu, để những cuộc vá víu tự thân lại âm thầm tiếp diễn.
4 notes · View notes
lcthbao · 9 months
Text
Tumblr media
216 notes · View notes
lcthbao · 10 months
Text
có những lúc trông người trong bóng tối
mắt xa xôi trĩu những đốm sao khuya
cuốn sách giở không thể nhìn rõ chữ
trong tâm tư đang chất chứa những điều…
ta chỉ biết châm giúp người điếu thuốc
thay ấm trà và mở những bài ca
ôm lấy người
dù chẳng bao giờ biết
những chuyện buồn sẽ đến lúc nào nguôi.
3 notes · View notes
lcthbao · 11 months
Text
giá mà lòng anh như con suối
chảy vào khe núi chẳng bâng khuâng
trong thân nhỏ bé tràn can đảm
tuôn mình về phía cuộc thênh thang,
giá mà lòng anh như câu hát
chân trời có kẻ hát vu vơ
thì anh sẽ chẳng bao giờ vỡ
thành nỗi lặng thinh giữa nhọc nhằn,
giá mà lòng anh như bóng mát
dặm trường có kẻ đến nghỉ chân
yên lòng ở đó xây ngôi quán
cất mộng đường xa sống vì mình,
giá mà lòng anh như giấy mới
chờ tay người viết những câu thơ
thì anh sẽ giữ yên lành đó
dìu mình ra khỏi đớn đau kia.
giá mà không biết say sẽ tỉnh
tỉnh rồi sẽ tiếc những cơn say
những khi anh biết anh thành thật
chẳng còn giả thiết nào vây quanh…
16 notes · View notes
lcthbao · 1 year
Text
ta muốn nối những con đường dang dở
thành nẻo về thương mến của riêng nhau
cho tha thiết dẫu muôn trùng khó nhọc
vẫn theo về trong ánh mắt long lanh,
muốn gom hết từng mảnh tình tan vỡ
thả lên trời cho gió cuốn bay đi
trái tim ấy sau nhiều phen nát vụn
lại tin ngày nguôi hết nỗi đau thương.
giờ chỉ muốn ôm người trên núi vắng
triệu ưu phiền gieo xuống đáy thung sâu
đem đổi hết hy vọng thành thất vọng
để một lần theo hướng dấu yêu trôi,
và chỉ muốn yêu người yêu trước nhất
muốn bên nhau như kẻ đến sau cùng
mong ước ấy dẫu tuyệt cùng vô vọng
ta vẫn ngồi trong thao thiết mà mơ…
10 notes · View notes
lcthbao · 1 year
Text
rốt cuộc rồi trời cũng mưa
sau rất nhiều ngày nắng
phố phường oi bức quá
chẳng bao giờ anh hiểu được em
ánh mắt xa xôi, dáng ngồi lặng lẽ
gió nổi lên rồi em thấy không
năm tháng qua đi chỉ mình anh ở lại
chẳng bao giờ anh hiểu được em.
tờ thư úa giữ tình yêu vẫn thắm
còn nhói lòng trong ngực áo anh mang
thư ở đó nhưng người không ở đó
nói anh nghe thương mến sẽ ra sao
em có giữ những điều anh muốn biết
gió bên kia chắc cũng đã xoay chiều…
anh đốt thuốc một mình trong quán vắng
khói cay hay anh vẫn thiết tha nhiều
phố đã ướt những con đường lấp loáng
những mặt người tất tả chẳng chờ nhau,
anh đã bước qua nhiều cơn khốn đốn
những con đường không biết dẫn về đâu
ngay cả lúc chẳng chờ chi nữa hết
vẫn nghe lòng thao thiết một cơn say.
anh chẳng biết những điều em chẳng nói
chẳng bao giờ anh hiểu được em
em chẳng thiết những điều anh chẳng giấu
thì đành thôi chứ còn biết làm sao
phố vẫn ướt từ lần mưa thuở cũ
tình yêu em anh vẫn chọn giữ gìn…
8 notes · View notes
lcthbao · 1 year
Text
ngày đầu tiên của tháng tư năm nào cũng vậy, cũng như một bữa đại tiệc mỹ từ về trịnh và về trương, còn mình thì vẫn luôn là một kẻ háu đói hớn hở trong sự chiêu đãi đó, dù đã nhiều năm rồi, những bài viết gom nhặt này với mình đã không còn gì mới. mình không nhớ đã bắt đầu nghe ba hát một cõi đi về hay sáu mươi năm cuộc đời từ tuổi nào của mình, nên cũng không nhớ được rằng mình đã yêu những lời ca đó từ khi nào, cho đến một ngày chợt thấy nhiều thứ mình viết ra dường như cũng ảnh hưởng bởi những dáng dấp ca từ đó. mình không nhớ bộ phim đầu tiên xem của trương, bằng laptop trên chiếc giường tầng ọp ẹp ở ký túc xá những năm mười chín hai mươi tuổi, là a phi chính truyện, bá vương biệt cơ hay là xuân quang hạ tiết. cũng không nhớ từ bao giờ mà ánh trăng nói hộ lòng tôi - bài ca anh hát trong live in concert 97 mãi mãi trở thành một lời yêu vĩnh cữu.
Tumblr media
vốn hiểu biết của mình về trương không nhiều bằng những điều mình biết về trịnh, và độ hiểu về trịnh của mình chỉ ngang ngửa với độ suy tư của một kẻ đang tập sống và lý giải về cuộc đời. ông cho mình biết cuộc đời đẹp đẽ nhường nào thì cũng bạc bẽo nhường ấy, có bao nhiêu nhọc nhằn thì cũng có bấy nhiêu nhẹ nhõm. còn đối với trương, mình đồ rằng không một biểu tượng thiêu thân vào cái đẹp, vào nghệ thuật, vào tình yêu, vào cuộc sống riêng tư nào (hay có khi hết thảy đều là một) có thể sáng rỡ và rõ nét bằng anh. cái sự sống chết với cái đẹp ấy, cái cơn cuồng duy mỹ ấy sẽ đi về đâu nếu lịch sử và quỹ đạo của nó không đi qua ánh mắt và cuộc đời của anh? và mình tự hỏi, sẽ ra sao khi ta nhắc đến trịnh mà không nhắc đến ánh, nhắc đến trương mà không nhắc đến đường. lúc ấy có lẽ chỉ còn là những hình dung không trọn vẹn, như một huyền thoại bị khuyết mất đôi cánh. tình yêu - thứ đã khai nhãn cho họ sáng rỡ với cuộc đời, đã nâng họ lên và nhấc bổng họ ra khỏi đời sống riêng tư, ra khỏi thời đại đó, khước từ mọi danh tiếng tầm thường và phồn hoa rẻ rúng, trở thành những tượng đài bất tử. trương hay trịnh, nghệ thuật hay tình yêu, rốt cuộc vẫn là những hóa thân ít ỏi bất tử giữa dòng tịnh tiến này, giữa bữa đại tiệc mỹ từ được bày ra h��m nay.
1 note · View note
lcthbao · 1 year
Text
người ơi suốt những cuộc dài
lòng ta bóng tối miệt mài giăng lên
vẫn chờ người đến cạnh bên
vì sao khẽ thắp lên trên muộn phiền
4 notes · View notes
lcthbao · 1 year
Text
NGÀY TRỞ VỀ THỊ TRẤN CỦA RIÊNG TA
ngày trở về thị trấn của riêng ta
có dáng ai xuôi về từ đỉnh dốc
trái tim chừng đã mỏi
mắt đựng đầy đến chín triệu lòng sông
có con chim sẻ già đứng nép mình bên mặt hồ tư lự
thiêm thiếp đánh rơi một buổi chiều
ta đã làm gì, ta đã đi đâu
sao chỉ nhớ những điều chẳng còn muốn nhắc
nửa thập kỷ yêu người
vì không sao quên được
nửa thập kỷ thương mình
kiêu hãnh và cô đơn.
ngày trở về thị trấn của riêng ta
sử quân tử vẫn đơm hồng trước cổng
khóm hoa bền lòng
sách bút chỏng chơ
bài ca trễ nải
xoay hướng nào cũng sợ chạm phải những miền chẳng dám gọi tên
nhớ không em những buổi chiều xưa như quả đất
những lần hồ váng màu nắng mật
đám chuồn chuồn đạp nước nhẹ tênh
ta đã đưa nhau đi tìm chòm mây ngũ sắc
và yêu nhau như chỉ biết duy nhất một kẻ trên đời
sau những chân trời, đỉnh núi, lòng khơi
ta vẫn chọn yêu nhau vì những điều nho nhỏ
như một vệt nắng vàng loang trên vai áo
vào buổi chiều đứng lặng trước hồ kia
ta đã chọn nhau và đã chọn không nhau
bởi cùng những điều chưa thôi ám ảnh
những ngọn nguồn đã nuôi lớn ta thêm
“em còn nhớ hay em đã quên…”*
ngày trở về thị trấn của riêng ta
những chuyện cũ cũng theo về đủ cả
kỷ niệm xưa dù đã thành chật chội
vẫn giam mình trong những vũng hoàng hôn
con chim sẻ già thức giấc hồn nhiên
nhìn ta lạ lẫm
trên mặt hồ lấp loáng
lại một buổi chiều lửng thửng tan đi…
-
*một bài hát của nhạc sĩ trịnh công sơn
4 notes · View notes
lcthbao · 1 year
Text
A private life is a happy life and the less they know, the better.
933 notes · View notes